Các trường đại học trên thế giới có mô hình quản trị nào và kinh phí lấy từ đâu?

Rate this post

Quản trị đại học luôn được coi là đòn bẩy nâng cao chất lượng giáo dục của mỗi quốc gia, là công cụ hữu hiệu giúp các cơ sở giáo dục đại học đạt được mục tiêu và sứ mệnh của mình. PGS. TS Nguyễn Mạnh Thiều, Trưởng ban Tổ chức – Cán bộ, Học viện Tài chính đã có những chia sẻ về vấn đề này trong Hội nghị Tự chủ Đại học năm 2022 vừa qua.

Theo PGS. Thiệu, hHiện nay, xu hướng quản trị đại học trên thế giới đang tập trung vào 4 mô hình quản trị đại học, thể hiện địa vị pháp lý của cơ sở giáo dục đại học trong xã hội, bao gồm: quản lý nước – kiểm soát hoàn toàn (state control); Mô hình bán tự chủ; Mô hình bán độc lập và độc lập.

Mỗi mô hình quản trị đại học đều có những ưu / nhược điểm nhất định, thể hiện tính tự chủ ở các mức độ khác nhau. Với mô hình nhà nước kiểm soát hoàn toàn, các cơ sở giáo dục đại học vẫn có quyền tự chủ nhất định trong việc thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn và tài chính. Ngược lại, mô hình độc lập (nhà nước giám sát) cho thấy rõ nhà nước chỉ đóng vai trò giám sát hệ thống đảm bảo chất lượng đại học và duy trì mức độ tự chủ và chịu trách nhiệm cao đối với các cơ sở giáo dục đại học.

Các trường đại học trên thế giới có mô hình quản trị nào và kinh phí lấy từ đâu?  - Ảnh 1.

Có bốn mô hình quản trị đại học trên thế giới. Minh họa: Phạm Hùng

Mô hình quản lý nhà nước – kiểm soát hoàn toàn trong quản trị đại học như mô hình của Malaysia, Trung Quốc và Đức

Mô hình tổng hợp hóa các trường đại học công lập ở Malaysia

Văn bản hóa các trường đại học công lập ở Malaysia là “tài liệu hóa trong quản trị”. Theo đó, Nhà nước dù cắt giảm một phần ngân sách nhưng vẫn tiếp tục bố trí để đảm bảo ngân sách nhà nước chiếm phần lớn trong tổng chi thường xuyên của các trường đại học để hỗ trợ các trường đại học công lập hoạt động hiệu quả. hiệu quả trong bối cảnh khó khăn về tài chính và tiền tệ, kể cả khủng hoảng.

Các trường có quyền huy động nguồn thu từ việc tăng học phí, mở rộng tuyển sinh, tăng cường cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ khoa học và công nghệ cho doanh nghiệp và nhà nước, cho người ngoài thuê cơ sở vật chất. vật tư thiết bị của trường và sử dụng nguồn thu để kinh doanh, sản xuất, cung ứng dịch vụ. Trong khi đó, nhà nước tiếp tục sở hữu tài sản thuộc sở hữu nhà nước tại các trường đại học công lập và tiếp tục cấp ngân sách, kinh phí để các trường thực hiện các chương trình, dự án phải đầu tư. độ sâu thứ tư.

Tăng quyền tự chủ của các trường đại học trong quản trị học thuật và nguồn nhân lực học thuật. Do mở rộng và tự chủ nguồn thu, trường có thể xây dựng và thực hiện cơ chế lương thưởng hấp dẫn để vừa phát triển vừa duy trì đội ngũ khoa học mà không bị “chảy máu chất xám”. thoát nước) từ các trường đại học công lập sang khu vực tư nhân.

Mô hình quản lý giáo dục đại học ở Trung Quốc

Hệ thống tài chính giáo dục đại học từ năm 1993 đến nay dựa trên nguồn tài chính của Chính phủ và nguồn tài trợ đa kênh.

Cơ quan quản lý giáo dục đại học ở Trung Quốc đang tiến hành cải cách. Cải cách giáo dục đại học được thực hiện như một phần của cải cách khu vực kinh tế trong những năm 1980 nhằm mang lại những thay đổi trong mối quan hệ giữa giáo dục đại học, nhà nước và thị trường. Các quyết định chính sách liên quan đến giáo dục đại học cũng được đưa ra bởi hội đồng nhà nước và Bộ Giáo dục đối với các trường đại học và các cơ sở giáo dục đại học khác ở cấp trường. Chi phí giáo dục đại học được chia sẻ giữa chính phủ và sinh viên.

Mô hình quản trị đại học của Đức

Hệ thống giáo dục đại học của Đức được Nhà nước bao cấp, sinh viên chỉ phải trả một mức học phí rất thấp, kể cả sinh viên nước ngoài. Giáo dục đại học miễn phí đã làm giảm khả năng cạnh tranh của giáo dục đại học Đức. Các giáo sư và nhân viên trở thành công chức nhận lương dựa trên thâm niên. Lương giáo sư thấp dẫn đến chảy máu chất xám, nhiều giảng viên, chuyên gia giỏi đã làm việc cho nước ngoài, sinh viên giỏi cũng đi du học. Hệ thống giáo dục đại học của Đức thiếu tính năng động và có nguy cơ tụt hậu so với một số nước ở châu Âu.

Vì vậy, chính phủ Đức đang tiến hành cải cách giáo dục, thu học phí đại học, trao quyền tự chủ cho các trường phổ thông và đại học, xây dựng hệ thống tuyển chọn giáo viên giỏi, lương cao, tăng cường trách nhiệm trong các cơ sở giáo dục như có quyền quyết định nhân sự như cũng như nội dung của các hoạt động. Xây dựng các trường đại học có uy tín, hội nhập quốc tế và nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống giáo dục.

Ở Đức, hệ thống đại học có 3 loại: Các trường đại học: chuyên nghiên cứu, học nhiều về lý thuyết; Các trường đại học khoa học ứng dụng: thiên về học thực hành; Đại học thực hành Berufsakademie (Đại học Sư phạm Hợp tác): liên kết chặt chẽ giữa lý thuyết và thực hành và trường nghệ thuật, điện ảnh và âm nhạc (Colleges of art, film, Music). Chính sách giáo dục đại học của Đức thể hiện sự xuất sắc, bình đẳng và khuyến khích khả năng học tập của sinh viên.

“Mô hình bán tự chủ” trong quản trị đại học của New Zealand

New Zealand vừa trải qua sự phân quyền hoàn toàn trong hệ thống giáo dục. Trách nhiệm trước đây thuộc về các cơ quan quản lý giáo dục ở cấp quốc gia và cấp vùng, nay đã được giao cho các trường học địa phương. Hơn nữa, việc quản lý trường học đã được chia sẻ hợp pháp giữa giáo viên, phụ huynh học sinh và cư dân địa phương, với số lượng thành viên lớn hơn nhiều. Có rất ít thay đổi thực sự trong hệ thống giáo dục của New Zealand trong suốt thế kỷ giáo dục với cơ chế quản lý tập trung rất mạnh mẽ.

Mô hình quản trị đại học bán độc lập ở Singapore

Tại Singapore, có ba trường đại học lớn là Đại học Quốc gia Singapore (NUS), Đại học Công nghệ Nanyang (NTU) và Đại học Quản lý Singapore (SMU). tự chủ hoàn toàn nhưng vẫn nhận tài trợ từ chính phủ.

Các trường đại học này được tự chủ về quản trị, học phí, tiêu chuẩn tuyển sinh, trả lương cho giảng viên, sử dụng hiệu quả và phát triển các nguồn lực tài chính theo hướng phát triển học thuật và tất cả vì danh tiếng của trường. . Hội đồng trường được trao quyền để giám sát, thực thi các mục tiêu chiến lược của chính phủ và kiểm soát hệ thống đảm bảo chất lượng. Rõ ràng cơ chế tự chủ, đặc biệt là cơ chế tự chủ tài chính của Singapore có nhiều ưu điểm, phát huy quyền làm chủ của trường đại học gắn với cơ chế giải trình.

Mô hình độc lập trong quản trị đại học ở Mỹ, Anh,

Hệ thống giáo dục đại học của Hoa Kỳ chịu ảnh hưởng nhiều của nền giáo dục châu Âu, đặc biệt là Anh và Đức. Tuy nhiên, giáo dục đại học Mỹ không bị ràng buộc bởi những chuẩn mực kiểu cũ của châu Âu mà chọn mô hình tự chủ đại học tuyệt đối. Hoa Kỳ không có hệ thống quản lý giáo dục quốc gia (ngoại trừ các học viện quân sự và trường học dành cho người Mỹ bản địa), các cơ sở giáo dục đại học không chịu sự chỉ đạo và quản lý của bất kỳ cơ quan trung ương nào. Mà trách nhiệm chính của các tiểu bang. Các bang chỉ quản lý một phần, bằng cách đầu tư một khoản tiền và cử đại diện vào Hội đồng quản trị.

Hệ thống giáo dục đại học của Hoa Kỳ được coi là tốt nhất trên thế giới. Điều này có được không chỉ do nguồn tài chính dồi dào, mà còn do tính tự chủ rất cao của các cơ sở giáo dục đại học. Chính quyền tự chủ này tạo ra sự linh hoạt trong hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học do không bị chi phối bởi các thủ tục hành chính nặng nề, các cơ quan hành chính rườm rà. Đồng thời, cơ chế tự chủ của Hoa Kỳ đã tạo ra môi trường cạnh tranh, khuyến khích nghiên cứu khoa học, đổi mới và sáng tạo. Các nguồn tài chính chính của các cơ sở giáo dục đại học đến từ nghiên cứu, đầu tư, dịch vụ, học phí và trợ cấp.

Mô hình quản trị đại học của Anh

Hiện Anh đang đẩy mạnh cải cách giáo dục đại học theo hướng trao quyền tự chủ cho các trường đại học, thực hiện chủ trương tư nhân hóa với nhiều hình thức và mức độ khác nhau như chuyển đổi một số trường công lập thành đại học. Các trường đại học tư thục, trường công lập tự chủ hoàn toàn, quản lý giáo dục theo mô hình doanh nghiệp – công ty, thực hiện liên kết giữa các trường đại học công lập – tư thục. Tăng cường quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nội dung, chương trình chuẩn và chất lượng giáo dục. Trường tư thục cũng phải phục vụ mục đích công cộng, đầu ra của trường công và trường tư phải như nhau, cần có sự đối xử bình đẳng giữa trường công và trường tư. Do đó, các trường đại học tư thục có thể được Chính phủ tài trợ.

Nguồn thu chính của các trường đại học là từ học phí của sinh viên và các nguồn tài trợ khác, với chỉ 3% là tài trợ nghiên cứu từ Chính phủ Trung ương và một phần nhỏ từ chính quyền địa phương.

Mô hình quản trị đại học hiện đại ở Nhật Bản

Hệ thống giáo dục đại học của Nhật Bản được xây dựng và quản lý dựa trên các nguyên tắc cơ bản là độc lập, tự chủ và tự do sáng tạo hay còn gọi là giáo dục đại học khai phóng. Các trường đại học Nhật Bản về cơ bản được chia thành ba loại: trường đại học quốc gia; các trường đại học công lập và trường đại học tư thục.

Các trường đại học quốc gia, được thành lập ở tất cả các địa phương với mục đích cải thiện và phát triển cân bằng giáo dục đại học và nghiên cứu học thuật của Nhật Bản, đã đóng một vai trò quan trọng như những trung tâm nghiên cứu địa phương. Từ năm 2004, các trường đại học này đã được công nhận là công ty / tập đoàn nhằm nâng cao tính độc lập và tự chủ của mỗi trường nhằm tăng cường hoạt động đào tạo và nghiên cứu. Các trường đại học công lập, được thành lập và quản lý bởi chính quyền / địa phương, cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc cung cấp cơ hội giáo dục đại học cho người dân địa phương và các trung tâm tri thức và văn hóa trong cộng đồng địa phương. Các trường đại học tư thục chiếm khoảng 80% tổng số các trường đại học ở Nhật Bản và có khoảng 80% sinh viên đại học theo học.

“Tự chủ đại học về bản chất không gì khác ngoài việc thực hiện mục tiêu tự chủ để tồn tại và phát triển trong sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của môi trường giáo dục toàn cầu hóa. Cần khẳng định rằng tự chủ đại học là một mô hình quản trị và phương thức vận hành của hệ thống các trường cao các cơ sở giáo dục, không phải là một mục tiêu hướng tới tất cả các trường đại học.

Trên thực tế, tất cả các cơ sở giáo dục đại học trên thế giới hiện nay đều đang thực hiện cơ chế tự chủ dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau, nhưng mỗi cơ sở giáo dục đại học, thậm chí mỗi cơ sở giáo dục đại học thường có cách hiểu và cách thức áp dụng mô hình quản trị theo cơ chế tự chủ rất khác nhau. . Điều đó có nghĩa là hiện nay trên thế giới chưa tồn tại mô hình quản trị theo cơ chế thống nhất và tự chủ tuyệt đối cho toàn thế giới ”, ông Thiệu nói.

Thanh Thuy

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *