Chúng ta cùng lắng nghe lời kêu gọi của ông cha ta theo lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch

Rate this post

Đúng như lời Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết trong tác phẩm Hồ Chủ tịch là hình tượng của dân tộc: “Chúng ta nghe theo tiếng gọi của ông cha ta theo tiếng gọi của Hồ Chủ tịch”[1].

Những lời vàng ngọc “bất hủ”

Nếu như Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi (năm 1428) gây ấn tượng về khí phách và lòng tự hào dân tộc trong những thế kỷ đầu dựng nước tự chủ thì Tuyên ngôn độc lập năm 1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị anh hùng của “Thiên cổ hùng văn”. “người thổi bùng khí thế cách mạng tiến công trong kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập, tự do, hạnh phúc.

Chỉ với 1021 chữ (kể cả nhan đề), bản Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo là một văn kiện hết sức đặc biệt. Nó đặc biệt theo nhiều cách. Trước hết, trên thế giới, khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, hàng loạt dân tộc thuộc địa vùng lên giành độc lập tự quyết, nhưng không phải nước nào cũng có Tuyên ngôn độc lập như Việt Nam.

Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Ảnh: Tư liệu

Ở Việt Nam, trong bối cảnh lợi ích phức tạp đan xen, ràng buộc lẫn nhau giữa các thế lực thù địch lúc bấy giờ, Tuyên ngôn Độc lập hướng đến các đối tượng khác nhau: đồng bào cả nước, đồng bào thế giới. và các thế lực thù địch, cơ hội quốc tế (Pháp, Mỹ) đang âm mưu xâm lược nước ta.

Vì hướng đến các đối tượng khác nhau nên Tuyên ngôn Độc lập 2-9-1945 cũng có những mục đích khác nhau: Tuyên bố trước toàn thể quốc dân, đồng bào và nhân dân trên thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam độc lập. ; cảnh cáo ý đồ xâm lược Việt Nam của Pháp và Mỹ; kêu gọi sự ủng hộ của dư luận tiến bộ quốc tế; thể hiện ý chí sắt đá của dân tộc Việt Nam, quyết tâm chiến đấu đến cùng để bảo vệ nền độc lập vừa giành được.

Vì vậy, Tuyên bố cần có cơ sở pháp lý và thực tiễn quốc tế vững chắc. Và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn mở đầu bản Tuyên ngôn bằng những lời vàng ngọc “bất hủ” là Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn về quyền con người và quyền công dân năm 1791 của Pháp.

Tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng. Họ được tạo hóa ban tặng cho một số quyền bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.“. Câu nói bất hủ đó có trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của Hoa Kỳ.

Tuyên ngôn về các quyền của con người và của công dân trong cuộc Cách mạng Pháp năm 17913 cũng đã nói: “Con người sinh ra được tự do và bình đẳng về quyền, và phải luôn được tự do và bình đẳng về quyền ”. Đây là những sự thật mà không ai có thể phủ nhận được.”.

Kết án “Đó là những sự thật không ai có thể phủ nhận”Được ngắt dòng, đặt thành đoạn riêng, tạo ấn tượng cảm nhận và giá trị khẳng định cao hơn nhiều. Kỹ thuật nghệ thuật này cho thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh vô cùng tinh tế, chặt chẽ, linh hoạt trong tư duy và thiên tài lý luận trong việc lấy “chân lý không thể chối cãi” để bào chữa. những điều đúng đắn ”cho bất kỳ ai, bất kỳ dân tộc nào, kể cả dân tộc Việt Nam.

Niềm tự hào dân tộc của Người thể hiện ở chỗ Người đã đặt nhân quyền của nhân dân Việt Nam ngang hàng với nhân quyền của nhân dân các nước lớn như Pháp, Hoa Kỳ; đặt ba cuộc cách mạng bình đẳng, ba cuộc độc lập bình đẳng, ba bản Tuyên ngôn độc lập bình đẳng.

Kết tinh, sáng ngời qua từng câu chữ

Ngược dòng lịch sử, khi viết Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi cũng đã tự hào khẳng định: “Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần nhiều đời gây nền độc lập / Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương / Dù mạnh yếu khác nhau tùy thời / Thế hệ nào cũng có. kiệt tác.”.

Rõ ràng, dù có khoảng cách hơn 500 năm lịch sử giữa hai bản Tuyên ngôn Độc lập nhưng chúng ta đều có thể nhận thấy, ý thức và lòng tự hào dân tộc của tổ tiên được kết tinh và tỏa sáng qua từng câu chữ.

Được Hồ Chí Minh – người chiến sĩ đi đầu trong sự nghiệp giải phóng dân tộc “phản ánh và viết nên sau những năm tháng bôn ba khắp thế giới, mang theo tử hình đế quốc Pháp, qua hàng chục nhà tù và những ngày tháng nằm phơi sương” ([2]), hệ tư tưởng chủ đạo, nổi bật trong Tuyên ngôn Độc lập là Độc lập – Tự do.

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết văn trong một cao hứng, cảm xúc như trào dâng trong ngòi bút quanh hai chữ Độc lập, Tự do. Có những câu ông sử dụng điệp ngữ một cách có chủ đích, tạo nhịp điệu hùng hồn, làm cho lời văn lan tỏa rộng hơn, tâm trí người đọc dễ ngấm, hiệu quả ngữ nghĩa cũng cao hơn.

Ví dụ câu: “Một dân tộc đã can đảm chống lại ách nô lệ của Pháp trong hơn 80 năm, một dân tộc đã can đảm đứng về phía Đồng minh chống lại phát xít trong nhiều năm, rằng mọi người phải được tự do! Con người phải độc lập! ”. Để tuyên bố những câu đó trước cộng đồng thế giới, người Việt Nam đã phải hy sinh nhiều thế hệ tinh hoa của mình, và những câu như vậy cũng đã khích lệ nhiều thế hệ tinh hoa noi theo. tiếp nối, quyết tâm giữ vững nền độc lập mà tổ tiên ông đã giành được.

Sau khi long trọng tuyên bố trước quốc dân và thế giới về quyền hưởng tự do, độc lập của Việt Nam và hơn thế nữa là sự thật đã thành một nước tự do, độc lập, nhân danh dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết tâm dùng hết tinh thần và sức lực, tính mạng và của cải để giữ vững nền độc lập tự do đó! ”

Lời khẳng định đanh thép của vị lãnh tụ tối cao thể hiện quyết tâm của toàn dân tộc, sẵn sàng chấp nhận hy sinh, mất mát có thể to lớn để bảo vệ bằng được những thành quả quý giá, to lớn. vừa thắng. Như thấy lại hình ảnh những ngày tháng Tám chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền, khi lâm trọng bệnh tưởng không qua khỏi nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn tràn đầy quyết tâm, ý chí và nghị lực. bên cạnh Ngài: “Dù hy sinh bao nhiêu, dù phải đốt cháy cả Trường Sơn vẫn quyết giành độc lập.”.

Không có gì quý hơn độc lập, tự do “ – Tư tưởng vĩ đại xuyên suốt trong toàn bộ Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành chân lý, tạo động lực to lớn cho dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp giữ vững và phát triển quyền tự do, độc lập. tạo ra.

Ngày chính quyền Pháp xua quân xâm lược, cả nước phải kháng chiến để giữ vững nền độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất quyết không chịu làm nô lệ”. . Khi đế quốc Mỹ bắt đầu leo ​​thang ném bom miền Bắc và ồ ạt đưa quân vào miền Nam, Người đã nêu lên chân lý muôn thuở: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.

Với nội lực của ý chí thống nhất đất nước và khát vọng hòa bình của hàng triệu người dân Việt Nam đang hừng hực khí thế soi đường, soi đường; vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, trên cơ sở đánh giá đúng mối quan hệ của các lực lượng. giữa ta và địch, Đảng ta đã đề ra những chủ trương, đường lối phù hợp với từng thời điểm lịch sử, lãnh đạo quân và dân cả nước giành thắng lợi cuối cùng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975.

Hoài bão của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tư tưởng về độc lập dân tộc, tự do, thống nhất đất nước và khát vọng của cả dân tộc đã trở thành hiện thực sinh động trên mảnh đất Việt Nam anh hùng.

[1] Bài viết của đồng chí Phạm Văn Đồng gửi đồng bào và chiến sĩ miền Nam Việt Nam, tháng 8-1948, in trong sách: Hồ Chủ tịch, hình tượng của dân tộc, tinh hoa thời đại, Nxb. Phạm Văn Đồng. Sự thật, Hà Nội, 1974, tr.7-31

[2] Trích sách: Những năm tháng không thể quên, Võ Nguyên Giáp, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân và Nhà xuất bản Thông tin lý luận, xuất bản năm 1990

Thanh Thuy

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *