Chuyển đổi số đòi hỏi nguồn nhân lực số

Rate this post

Khách hàng trải nghiệm giải pháp công nghệ của FPT tại Diễn đàn phát triển doanh nghiệp cà phê toàn quốc lần thứ 3.  Ảnh: Việt Linh
Khách hàng trải nghiệm các giải pháp công nghệ của FPT tại Diễn đàn Quốc gia về phát triển doanh nghiệp số lần thứ 3. Ảnh: Việt Linh

Vừa thiếu vừa yếu

Báo cáo mới đây của Bộ Thông tin và Truyền thông cho thấy, mỗi năm, số sinh viên tốt nghiệp các chuyên ngành liên quan trực tiếp đến chuyển đổi số rơi vào khoảng 65.000 người. Tuy nhiên, con số này vẫn còn thấp, dẫn đến hệ quả trực tiếp là Việt Nam đang đứng trước nguy cơ thiếu hụt nguồn nhân lực công nghệ cao để thực hiện chuyển đổi số, bất chấp nhu cầu tuyển dụng của các cơ quan. , tổ chức, doanh nghiệp (DN) ngày càng nhiều để thực hiện quá trình chuyển đổi này.

Không chỉ vậy, trong cơ cấu nhân lực, tỷ lệ nhân lực kỹ thuật / tổng lao động của nền kinh tế Việt Nam chỉ hơn 1%. Đây là chỉ số khá thấp so với một số nước như Mỹ (4%), Hàn Quốc (2,5%) hay Ấn Độ (1,78%). Điều này cũng phản ánh thực tế Việt Nam đang thiếu trầm trọng nguồn nhân lực có kiến ​​thức và kỹ năng, làm chủ các công nghệ mới, điển hình của chuyển đổi số như trí tuệ nhân tạo, khoa học dữ liệu. dữ liệu, tự động hóa hoặc blockchain.

Dữ liệu từ nền tảng tuyển dụng TopDev cũng cho thấy, nguồn nhân lực CNTT tại Việt Nam đang thiếu hụt khá lớn. Điển hình như năm 2021, trong khi doanh nghiệp cần tới 450.000 lao động thì nguồn nhân lực chỉ đáp ứng được 430.000 người. Đến năm 2022, sự thiếu hụt này cũng dự kiến ​​lên tới 150.000 lao động khi nhu cầu tuyển dụng của thị trường lên tới 530.000 người.

Đáng chú ý, TopDev cũng nêu ra một thực trạng đáng lo ngại rằng, trong số hơn 60.000 nhân viên công nghệ thông tin tốt nghiệp hàng năm ở các trình độ trung cấp, cao đẳng và đại học, chỉ có khoảng 1/3 trong số này là có thể làm việc được. Hầu hết họ đều phải qua đào tạo của doanh nghiệp mới có thể bắt đầu làm việc chính thức.

Trao đổi về thực trạng này, Chủ tịch Tập đoàn Công nghệ CMC Nguyễn Trung Chính cho rằng, nhu cầu nhân lực số rất lớn nhưng các trường đại học hiện nay chưa thể đáp ứng cả về số lượng và chất lượng. Về số lượng, thực tế chỉ đáp ứng khoảng 25% nhu cầu. Số lượng chỉ đạt 30% số lượng đạt yêu cầu.

Ông Chính lấy câu chuyện tuyển dụng của Samsung tại Việt Nam làm ví dụ. Với việc đầu tư trung tâm nghiên cứu và phát triển tại Việt Nam, Samsung đã coi nước ta là trung tâm cung cấp dịch vụ số ra thế giới. Do đó, năm 2021, dù bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19 nhưng nhu cầu tuyển dụng của Samsung vẫn rất cao. Tập đoàn này đã yêu cầu CMC cung ứng hàng nghìn lao động, dù rất cố gắng nhưng thực tế chúng tôi chỉ hoàn thành 30% nhu cầu.

Chất lượng nguồn nhân lực số của Việt Nam vừa thiếu vừa yếu. Trong khi đó, đến năm 2030, thị trường sẽ cần 1,5 triệu lao động CNTT. Chúng tôi cần bổ sung số lượng lớn nhân sự để đáp ứng nhu cầu của thị trường, ông Nguyễn Trung Chính chia sẻ.

Giao dịch với Robot OPBA tại Nam A Bank.  Ảnh: Việt Linh
Giao dịch với Robot OPBA tại Nam A Bank. Ảnh: Việt Linh

Xây dựng một trường đại học kỹ thuật số

Theo tính toán, để thực hiện quá trình chuyển đổi số quốc gia, trong cơ cấu nhân lực, nhân lực kỹ thuật phải chiếm khoảng 2%. Điều này tương đương với việc Việt Nam phải có tối thiểu 80.000 sinh viên kỹ thuật mỗi năm, tăng khoảng 40% so với hiện nay. Mục tiêu này được cho là khó đạt được nếu cả 158 trường đại học đào tạo ngành công nghệ thông tin, điện tử – viễn thông và an toàn thông tin chỉ có tổng số hơn 80.000 chỉ tiêu tuyển sinh / năm.

Thực tế, Việt Nam không phải là quốc gia duy nhất đối mặt với vấn đề đào tạo nhân lực kỹ thuật số này. Trước đây, các cường quốc về công nghệ thông tin như Ấn Độ hay Hàn Quốc cũng gặp phải vấn đề tương tự. Và phát triển đại học số là giải pháp đã được chứng minh là thành công khi giúp các quốc gia này đảm bảo số lượng và chất lượng nguồn nhân lực công nghệ thông tin nói chung và nhân lực số nói riêng.

Hiểu một cách đơn giản về mô hình đại học số là đưa mọi hoạt động của trường, giảng viên và sinh viên lên môi trường số. Hoạt động trên cả phương thức đào tạo trực tiếp và trực tuyến sẽ giúp các trường đại học kỹ thuật số khắc phục nhiều hạn chế về vật chất mà một trường học truyền thống gặp phải. Dẫn đến việc tiếp cận dễ dàng hơn với các dịch vụ giáo dục, đào tạo nhiều hơn, chi phí thấp hơn, với chất lượng tối thiểu như nhau.

Điển hình cho mô hình này là Hàn Quốc, dân số chỉ hơn 50 triệu người nhưng đã có tới 20 trường đại học kỹ thuật số. Trong đó nổi bật là Đại học Kỹ thuật số Seoul khi đào tạo hoàn toàn trực tuyến, số lượng sinh viên hàng năm lên đến 40.000 người. Những mô hình hiệu quả như vậy là một trong những nguyên nhân chính đưa Hàn Quốc trở thành quốc gia đứng đầu thế giới về tỷ lệ thanh niên 25-34 tuổi có trình độ đại học chiếm khoảng 60%, tạo ra nguồn lao động chất lượng cao dồi dào cho Quốc gia.

Tại Việt Nam, quá trình số hóa trình độ đại học cũng đã bắt đầu được triển khai ở trạng thái ban đầu tại một số cơ sở đào tạo, điển hình là Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông thông qua nền tảng công nghệ PTIT. -Kết nối do đơn vị tự phát triển. Với giải pháp này, hơn 13.000 sinh viên và cán bộ, nhân viên của Học viện có thể thực hiện hầu hết các hoạt động như đăng ký tuyển sinh, học – luyện – thi trực tuyến 100%… hoặc tham gia các hoạt động. khác mà không có mặt ở trường.

Được biết, dù có hai đợt bùng phát dịch Covid-19 vào năm 2021, nhưng Học viện đã tổ chức đào tạo trực tuyến cho gần 90.000 học viên với 196 môn học, hơn 1.400 lớp học trực tuyến cho hơn 12.000 học viên. Bên cạnh đó, tổ chức thi và bảo vệ đồ án, luận văn trực tuyến cho gần 55.000 lượt sinh viên. Con số được cho là đáng mơ ước của bất kỳ trường đại học nào trong cùng thời kỳ.

Ngoài ra, xây dựng trường đại học số cũng là xu hướng được một số tập đoàn công nghệ lớn trong nước lựa chọn khi đầu tư vào giáo dục. Điển hình là Tập đoàn Công nghệ CMC đã đầu tư giai đoạn 1 với số tiền hơn 1.000 tỷ đồng để nâng cấp Trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp Á Châu thành Trường Đại học CMC theo tiêu chuẩn số hóa toàn diện từ vận hành. để giảng dạy.

Nói về mô hình hoạt động của Đại học CMC, Phó trưởng khoa Kỹ thuật số – TS Nguyễn Kim Cương cho rằng có nhiều điểm tương đồng với một công ty công nghệ. Tuy nhiên, điểm khác biệt nằm ở đầu ra của trường đại học công nghệ là những người am hiểu. Sau khi tốt nghiệp ra trường, tôi đã có thể bắt tay vào làm việc ngay mà không cần phải đào tạo thêm.

Với mục tiêu thiết lập kết nối sinh viên – trường đại học – doanh nghiệp, nhà trường sẽ luôn hiểu rõ doanh nghiệp cần gì để có chương trình đào tạo phù hợp cho sinh viên. Đây sẽ là nguồn nhân lực quan trọng không chỉ cho các công ty thành viên CMC mà còn cho các đối tác như Microsoft, Samsung SDS…

Đề án “Nâng cao nhận thức, phổ cập kỹ năng và phát triển nguồn nhân lực phục vụ chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” đặt ra các mục tiêu: Hoàn thiện và thí điểm mô hình đại học số trên một số lĩnh vực. các cơ sở giáo dục đại học đến năm 2025, đến năm 2030 có ít nhất 50% trường đại học công lập trên toàn quốc áp dụng mô hình này; Đào tạo 20.000 kỹ sư, cử nhân, cử nhân chất lượng cao thực hành công nghệ số tại các trường đại học, cao đẳng có thế mạnh đào tạo về chuyển đổi số.

Thanh Thuy

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *