Trao đổi về vấn đề này, Luật sư Nguyễn Thu Trang, Văn phòng Luật sư Hưng Đạo Thăng Long cho rằng, có hai trường hợp thừa kế là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật.
Theo đó, Điều 624 Bộ luật dân sự 2015 quy định về di chúc như sau: Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết.
Như vậy, nếu người cho tinh trùng lập di chúc hợp pháp cho đứa trẻ sinh ra bằng phương pháp hỗ trợ kỹ thuật thì người này được thừa kế.
Đối với trường hợp thừa kế theo pháp luật sẽ được thực hiện tại Điều 649 BLDS 2015: Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và thứ tự thừa kế do pháp luật quy định.
Điều 651 quy định về những người thừa kế theo pháp luật như sau:
1. Người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà ngoại, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết và người chết là ông nội, bà ngoại, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: ông nội, bà ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt của người chết mà người chết là ông cố nội.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng một phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng di sản nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước vì họ đã chết, không còn quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Như vậy, để xem xét đứa trẻ sinh ra bằng công nghệ hỗ trợ sinh sản và người cho tinh trùng có di truyền từ nhau hay không thì cần xác định rõ mối quan hệ giữa họ là gì?
Điều 93 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định việc xác định cha, mẹ trong trường hợp sinh con bằng phương pháp hỗ trợ sinh sản như sau:
1. Trong trường hợp vợ sinh con bằng công nghệ hỗ trợ sinh sản thì việc xác định cha, mẹ được thực hiện theo quy định tại Điều 88 của Luật này.
2. Trường hợp phụ nữ ở riêng sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì phụ nữ đó là mẹ của trẻ sinh ra.
3. Việc sinh con bằng công nghệ hỗ trợ sinh sản không làm phát sinh quan hệ cha mẹ – con giữa người cho tinh trùng, người cho noãn, phôi và con sinh ra.
4. Việc xác định cha, mẹ trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo được thực hiện theo quy định tại Điều 94 của Luật này.
Như vậy, trừ trường hợp có thỏa thuận khác, theo quy định tại khoản 3 Điều 93 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không làm phát sinh quan hệ cha con với người cho tinh trùng. Trong trường hợp này, đứa trẻ sinh ra bằng công nghệ hỗ trợ sinh sản và người cho tinh trùng không thừa hưởng từ nhau.