Nhiệm vụ đặc biệt – đánh cá MiG
Đầu năm 1966, được cử sang Liên Xô huấn luyện 5 năm, chiến sĩ Nguyễn Xuân Trường bắt đầu phục vụ ở nhiều chiến trường.
“Trong chống chiến tranh phá hoại bằng đường không của đế quốc Mỹ, chúng ta phải hết sức linh hoạt, sơ tán máy bay MiG ra khỏi sân bay và đưa máy bay vào sân bay cất cánh kịp thời. đánh thắng kẻ thù. Nhiệm vụ chính trong khoảng 5 năm của chúng tôi là đánh bắt các máy bay MiG. Quán triệt nguyên tắc chỉ khi trinh sát không thấy máy bay MiG nào thì quân địch mới yên tâm chiến đấu. Vì vậy, mọi công việc phải nhanh chóng. Câu MiG là chiến lược sáng tạo của chúng tôi ”, anh Trường nhớ lại.
Mi 6, máy bay trực thăng vận tải khổng lồ thời đó, được sử dụng làm cần cẩu bay. Rạng sáng, anh và đồng đội phải dùng trực thăng vận chuyển máy bay MiG đến cất giấu và đưa trở lại đường băng lúc chập choạng tối, chờ lệnh xuất kích. Bộ đội thậm chí còn điều máy bay MiG đến các sân bay dã chiến ở Đồng Hới, Troóc (Quảng Bình) để phục kích không quân Mỹ, đặc biệt là “pháo đài bay B-52”.
Không chỉ cẩu máy bay, tại các sân bay, thành phố lớn … lực lượng không quân ta thường xuyên cẩu radar, pháo phòng không lên núi hoặc cơ động khắp nơi, tham gia vận chuyển vũ khí cho các lực lượng chiến đấu ở miền Nam. .
Điều này khiến không quân Mỹ rất bất ngờ, bị động, không hiểu tại sao MiG 21, MiG 17 lại có thể bất ngờ tấn công đội hình của mình, dù trước đó máy bay trinh sát đã chụp ảnh trên không. về các báo cáo không có ụ súng phòng không …
Là phi công đầu tiên của Không quân Nhân dân Việt Nam điều khiển máy bay trực thăng UH-1 của Mỹ, Đại tá Nguyễn Xuân Trường được giao nhiệm vụ chỉ huy phi đội làm nhiệm vụ đặc biệt trước và sau ngày 30/4/1975.
Nói về chiếc trực thăng UH-1 đầu tiên, ông Trường nhắc đến người “bị đánh cắp” là phi công Hồ Duy Hùng – phi công lái trực thăng của Quân lực Việt Nam Cộng hòa cuối năm 1973. Ông Hùng được lệnh đi xin giấy phép. . bằng mọi giá lấy được trực thăng đưa ra vùng giải phóng – đây là vụ trộm máy bay hy hữu, dẫn đến “vụ tẩu tán quân trang” trong Quân đội Sài Gòn lúc bấy giờ.
Đầu năm 1974, đơn vị cử phi công Nguyễn Xuân Trường cùng đoàn công tác từ Hà Nội vào Lộc Ninh đón máy bay UH-1 về Sân bay Hòa Lạc. Sau đó, ông Hồ Duy Hùng được cấp trên giao nhiệm vụ thuyết minh về tính năng hiệu quả và huấn luyện phi công sử dụng máy bay UH-1, trong đó có phi công Nguyễn Xuân Trường (sau này là Đại tá, Tham mưu trưởng). tổ bay phục vụ dầu khí) và Nguyễn Đình Khoa (sau này là Phó Tham mưu trưởng Quân chủng Không quân, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân). Trong 3 giờ bay, các phi công đã điều khiển thành thạo, điều khiển UH-1 phù hợp với lịch trình bảo dưỡng định kỳ 100 giờ của nó.
Cũng từ đây, phi đội UH-1 đã trưởng thành, làm chủ được những “chiến tích” vũ khí thu được từ quân địch. Quân đội ngụy Sài Gòn lúc bấy giờ trang bị khoảng 1.200 chiếc UH-1. Sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, quân đội ta có khoảng 800 chiếc được sử dụng hữu ích trong chiến đấu chống Fulro, Pol Pot, chiến tranh biên giới Tây Nam và bảo vệ quần đảo Trường Sa, tiếp tế cho các đảo. tại thời điểm đó.
“Tôi lái chiếc UH-1 từ năm 1975 đến 1980, đã 5 năm sử dụng rất tốt. Chúng tôi chỉ có một trung đoàn nên sử dụng được khoảng 300 chiếc ”, Đại tá Nguyễn Xuân Trường nhớ lại.
Kế hoạch tấn công Dinh Độc Lập
Anh Trường nhớ lại, giữa tháng 4/1975 tại Sân bay Đà Nẵng, biên đội UH-1 thuộc Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không – Không quân chính thức được thành lập với nhiệm vụ bí mật.
Nếu phi đội A-37 tấn công sân bay Tân Sơn Nhất mà chính quyền cũ không đầu hàng thì trực thăng UH-1 tiếp tục sứ mệnh thả bom xuống Dinh Độc Lập, phá hủy cơ quan đầu não và làm rối chính quyền Sài Gòn. gây sức ép với nhân dân Sài Gòn về bộ máy… Biên đội gồm 4 chiếc UH-1 lúc bấy giờ do Đại tá Nguyễn Xuân Trường chỉ huy, được trang bị đầy đủ hỏa tiễn, súng máy 6 nòng và 8 phi công (4 hoa tiêu). chính, 4 phụ) hoa tiêu, 8 xạ thủ đại liên, một số nhân viên kỹ thuật đi cùng.
Cả hai đội A-37 và UH-1 đều thay đổi tại Đà Nẵng. Tuy nhiên, biên đội A-37 thuận lợi hơn vì có “thầy” phi công Nguyễn Thành Trung (cán bộ của ta cài vào không quân chế độ cũ) rất giỏi. Trong khi đội UH-1 chỉ có phi công Nguyễn Xuân Trường và Nguyễn Đình Khoa lái chiếc UH-1 trong vài giờ, thì lúc đó anh chị vừa học vừa dạy cho anh em trong đội. Khi chuẩn bị thì xảy ra sự cố khi lắp đặt tên lửa, “ngã ngửa” đến nay vẫn chưa có ai dạy cách vận hành, cách bắn.
Đại úy Nguyễn Xuân Trường đề nghị gọi phi công Hồ Duy Hùng từ Lộc Ninh chạy ra sân bay Phù Cát (Bình Định) để được hướng dẫn. Nhận lệnh, anh Hùng chạy xe mấy ngày đêm dọc đường Trường Sơn vào miền Trung, nhưng rồi đâm vào vách núi và nằm bất tỉnh trong bệnh viện dã chiến. Không có thầy, cái khó ló cái khôn, phi công Trường nhờ cán bộ kỹ thuật chế độ cũ và cuối cùng áp dụng kinh nghiệm: Vẽ một vòng tròn trên kính chắn gió bằng bút dạ, khi nào thấy sẽ lặn. Nếu mục tiêu nằm trong một vòng tròn, thì… nhấn nút bắn tên lửa.
Khó khăn này đến khó khăn khác, 16 phi công và xạ thủ của biên đội UH-1 chưa từng bay trên bầu trời phương Nam nên chỉ biết Sài Gòn trên bản đồ. Lúc này, phi công Nguyễn Thành Trung của biên đội A-37 nảy ra sáng kiến: Bay dọc đường cầu Sài Gòn, từ đó nhìn qua trái sẽ thấy một sân hộp rộng có hồ nước tròn phía trước, tức là mục đích. mục tiêu tấn công. Bộ đội lúc đó cũng tìm được ảnh chụp Dinh Độc Lập để biết mục tiêu ở đâu.
Thêm một điều băn khoăn, sau trận đánh chắc chắn sẽ không đủ nhiên liệu để bay về Sân bay Phan Rang, Nguyễn Thành Trung khi đó đề nghị: Bay về phía đông, phía sau dãy núi Thị Vải (Bà Rịa-Vũng Tàu) là khu . vắng vẻ, đậu ở đó cố cầm cự chờ quân ta ở Xuân Lộc đến ứng cứu.
“Chúng tôi đã chuẩn bị đầy đủ. Chiều ngày 28 tháng 4 năm 1975, biên đội A-37 tấn công sân bay Tân Sơn Nhất, phá hủy máy bay, đường băng, cắt cầu hàng không và thực hiện thành công nhiệm vụ được giao nên rạng sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, quân Sài Gòn. chính phủ đầu hàng. Kế hoạch của chúng tôi do đó không cần phải thực hiện nữa. Chúng tôi thường nói đùa với nhau rằng sẽ bỏ lỡ cơ hội trở thành anh hùng, nhưng chúng tôi rất vui vì miền Nam được giải phóng ”, Đại tá Nguyễn Xuân Trường nói.