Danh nhân Việt Nam tự so sánh mình với Gia Cát Lượng

Rate this post

Nguyễn Gia Cát, bí danh Địch Hiền, người xã Hoa Cầu, huyện Văn Giang (nay là thôn Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên). Ông là một danh nhân nổi tiếng đương thời, để lại cho đời những tác phẩm y học và văn học vô cùng quý hiếm.

Đỗ đến triều Lê, làm quan triều Nguyễn.

Theo truyền thuyết, khi còn nhỏ, Nguyễn Gia Cát rất thông minh, nhưng ham chơi. Một lần nọ, có một vị quan làng trên đường đi Vĩnh Quý, đường phải đi qua làng chàng trai. Gia Cát Lượng đang chơi nên lấy gạch viết chữ Môn to tướng xuống phố.

Nghe vậy, chàng trai hỏi: “Cổng lớn thì voi ngựa chui lọt võng, ngươi không nhớ lời” doanh khai môn “của Tống Thái Tổ sao?”. Quân hơi ngượng ngùng nhưng nói ngay: Con này ngoan thật, đối diện chúng ta sẽ được thưởng. Tiếp theo: Ngói đỏ lợp tranh, lớp trên chồng lớp dưới (nghĩa vừa là nhà vừa là tiến sĩ).

Không cần suy nghĩ, Gia Cát Lượng đáp luôn: Đá xanh xây cống, đá hạ là đá đỉnh (nghĩa là cống vừa làm cống, vừa là cống (cử nhân dưới tiến sĩ). Sự hóm hỉnh hóm hỉnh của Nguyễn Gia Cát là những từ như “hàng dưới là đảo trên” mang ý nghĩa răn đe “hàng trên là hàng dưới”, nhưng nếu không có “hàng dưới là hàng trên” thì cũng sập tiệm. Đốt cũng được hiểu là chống lại.

Biết thơ mình bị trẻ con vò nát đầu, nhưng quan đành phải nhận, gật đầu khen phần tốt và thưởng cho một quan tiền. Gia Cát Lượng chia sẻ số tiền đó cho bạn bè ăn chơi.

Nhà khoa học tự so sánh mình với Gia Cát Lượng ảnh 1
Nguyễn Gia Cát nổi tiếng với giai thoại chọc ghẹo Quán Nghệ / INT.

Năm 26 tuổi, Nguyễn Gia Cát thi đỗ Tiến sĩ khoa Đinh Mùi, niên hiệu Chiêu Thống 1 (1787) triều Lê Mẫn Đế. Tháng 12 năm 1787, quân Tây Sơn ra Bắc, ông về làng ở ẩn, dạy học, không ra làm quan.

Năm 1802, Gia Long lên ngôi và ra Bắc. Chàng không ra yết kiến, vua định bắt. Anh ta nói với bạn bè: Nếu có một người là Gia Cát, và anh ta có tội, anh ta sẽ lấy ai làm cố vấn cho mình? Câu đối đến tai Gia Long, ông được mời ra làm quan.

Năm 1803, Nguyễn Gia Cát cùng Lê Quang Định, Lê Chính Lộ đi sứ nhà Thanh. Đến Quảng Tây, phái đoàn của ông gặp sứ thần Ngô Nhân Tịnh, Trịnh Hoài Đức và Hoàng Ngọc Uẩn đã đi từ năm trước (Nhâm Tuất – 1802) nhưng vì gặp bão nên đến muộn nên hai phái đoàn cùng nhau đi. cùng một nhiệm vụ. đến triều đại nhà Thanh.

Điều này, sử sách nhà Nguyễn ghi lại: Tháng 4 năm Canh Thân (1800), ông lấy thụy hiệu là Nguyễn Gia Cát, tiến sĩ triều Lê, làm Đốc học Đông Cung (Hoàng tử Cảnh).

Nhà khoa học tự so sánh mình với Gia Cát Lượng ảnh 2
Kim Bảng lưu danh tiến sĩ – Nguyễn Gia Cát đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân năm 1787.

Năm 1802 ông nhậm chức Cần Chánh miếu hiệu, làm Phó sứ trong sứ đoàn Lê Quang Định sang Trung Quốc cầu phong. Nhà Nguyễn lại cử Thượng thư Lê Quang Định làm chánh sứ; Thiêm đô ngự sử Lê Chính Lộ và Đổng học sĩ Nguyễn Gia Cát làm phó sứ sang Thanh xin sắc phong, đổi quốc hiệu là Nam Việt.

Khi vào yết kiến ​​vua Thanh, ông được hỏi: “Vua phương Nam đặt niên hiệu Gia Long, có phải lấy niên hiệu của hai triều đại thiên tử là Gia Khánh và Càn Long không?”. Nguyễn Gia Cát đối đáp trôi chảy khiến vua nhà Thanh rất thán phục. Về nước, ông được thăng làm Tả thượng thư Bộ Lễ, được ban tước Quý Giang Hầu tước hầu.

Tác giả thế kỷ 18

Nguyễn Gia Cát nổi tiếng về văn thơ, thường cùng nhóm “Gia Định tam gia” (Lê Quang Định, Ngô Nhân Tịnh, Trịnh Hoài Đức) kết thân.

Các tác phẩm của ông bao gồm: Hoa Trình Thơ và Trích Đoạn Bi Như Quần Phương. Đặc biệt là tác phẩm “Quế Sơn dược yếu chỉ” gồm thơ, văn, y học nước ta ở Đàng Trong dưới thời các chúa Nguyễn.

Các tài liệu đã chứng minh Đốc học Nguyễn Gia Cát là người đã biên soạn tác phẩm này, nhằm đào tạo lương y ở Nam Kỳ vào khoảng cuối thế kỷ 18, đã có bản chép tay “Cổ Quốc âm thi tập ca” chép tay. Chinesse.

Một số sách y học triều Nguyễn cũng có chép bản mạch này và nhiều thế hệ danh y Việt Nam rất quan tâm, trong đó có Nguyễn Đình Chiểu. Lương y Đỗ Phong Thuận đã dịch thành quốc âm trong “Việt Nam y học thực nghiệm”, xuất bản tại Sài Gòn năm 1956.

Với những bài viết của các vị đại thần trong triều, đây là một cuốn sách có giá trị và đáng tin cậy trong việc nghiên cứu, bổ sung nhiều vấn đề lịch sử và y học.

Bộ sách có các phần: Phù Thang, Phù Mạch, Phụ Dược, Phụ Bệnh … không giống như các bộ sách của Trung Quốc như: Y học nhập môn, Phùng thị cẩm nang, Minh Y chỉ thượng … Khi so sánh với các bộ sách khác trong sách của Tuệ Tĩnh, Hải Thượng Lãn Ông, nó có nhiều khía cạnh đặc biệt, đặc thù, ưu điểm riêng.

Đặc biệt, sách còn ghi lại đầy đủ: Lỗ San Mạch gồm 3 phần: Nhạc quốc cổ Lỗ San (Thơ lục bát), Tám phím Mạch Phù và Tám Phím Toa Ngoại, đã bị thất truyền ở Trung Quốc; Nhân phú, y thuật phú, phú phương thang, chỉ Nam dược quốc nhạc (sách dạy chữ Nôm cho thầy thuốc).

Có khoa, tiểu loại, phú thang, phụ khoa, tiểu nhi, thương hàn, ngoại cảm, hỗn tạp … Một phần nhỏ đã được một số danh y dịch ra tiếng Việt như: Lỗ San mạch phu, Lỗ San Mặc Ca. , Nhan Nhan Phu. Nhưng hầu hết sách dịch còn nhiều thiếu sót.

Ngoài y thuật, Nguyễn Gia Cát còn để lại một áng văn khá đặc sắc trong số các tác phẩm văn xuôi tự sự Việt Nam thời Trung đại – “Tân bình Việt Nam u linh tập”.

Tên tác phẩm cho thấy tác giả đã dựa vào một tác phẩm có từ trước để sáng tạo, đó là “Việt điện u linh tập” của Lý Tế Xuyên. Dù cho rằng mình chỉ làm một việc rất nhỏ – tân văn (sửa lại và bình luận), nhưng ông đã thực sự “hóa xương” và biến một tác phẩm thần kỳ thành tác phẩm văn học nghệ thuật. .

Nguyễn Gia Cát cao hứng biên dịch lại, khiến quy mô tác phẩm của Lý Tế Xuyên được mở rộng. Với lối viết độc đáo, dựng nên một khung cảnh hoành tráng về cuộc chiến đấu kiên cường chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam trong thời kỳ Bắc thuộc, qua đó các bậc thầy trong “Việt điện u linh tập” một lần nữa được tái hiện đầy đủ, cụ thể và sinh động.

“Việt Điện u Linh Tập” là sự hòa quyện của cả ba tư tưởng Nho, Lão, Phật và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Có thể nói, mục đích bao trùm toàn bộ công trình là phục vụ cho việc thờ cúng. Chính vì vậy mà tác phẩm đã trở thành một sản phẩm văn học có ảnh hưởng lớn đến văn học tự sự Việt Nam thời kì trung đại.

Mặc dù vẫn tiếp nối con đường của các bậc tiền bối đi trước, nhưng Nguyễn Gia Cát đã dứt ra khỏi công việc “củng cố”, “bồi bổ”… và chọn cho mình một phương pháp khác: Chuyển thể một tác phẩm văn học nghi lễ thành một tác phẩm thấm đẫm chất văn học và sắc thái nghệ thuật.

Nhà khoa học tự so sánh mình với Gia Cát Lượng ảnh 3
Nguyễn Gia Cát là tác giả của “Tân biên bình Việt Nam u linh tập”.

Trường hợp của “nam thần”

Dù có công lớn đối với triều đình nhà Nguyễn, cũng như đối với học vấn Tiến sĩ – và đối với văn học – y học Việt Nam, nhưng sau này Nguyễn Gia Cát lại dính vào một vụ án “giải oan”. dã man ”nên bị cách chức, phạt tù 4 năm.

Theo một số nguồn tư liệu lịch sử, vào tháng 2 năm Gia Long thứ 3 (1804), các quan ở Bắc Thành xin sắc phong thần thổ địa và cử các làng đến khảo sát di tích. Ai có công với dân, được vua phong thì lập danh sách để xin sắc phong sau.

Vua Gia Long sai Nguyễn Gia Cát đến bàn việc tuyên bố này. Gia Cát Lượng ủy quyền cho Thiêm sự Vũ Quý Đình trực tiếp chỉ đạo việc khai thị, cử con trai là Nguyên Dục và anh rể Tô Văn Đẩu đến phụ giúp.

Lợi dụng chức vụ được giao, Vũ Quý Đình đã khai man, khai man, phong ông bà, cha mẹ làm phúc thần để được ban sắc phong mới. Họ Nguyễn Đức cũng dựa vào đó để giả danh, khai man gian thần, gây hoang mang dư luận.

Mãi đến năm Tân Tị (1811), vụ án trên mới được khám phá. Các quan ở Bắc Thành phát hiện có hơn 560 văn bản được làm giả để phong cho danh hiệu “man thần”. Vua Gia Long nghe lời cả giận, sai triều đình xét lại.

Điều đáng chú ý của sự việc là trong số “rợ” có Hoàng Ngũ Phúc – vị tướng lãnh đạo quân Lê – Trịnh vượt sông Gianh đánh chúa Nguyễn ở Đàng Trong năm Giáp Ngọ 1774. Ông đã bị giết. Trên đường về Đàng Ngoài, nhiều làng xã lập đền thờ.

Đặng Trần Thường – một trong những tấm lòng nhân hậu, có công lớn giúp Nguyễn Ánh – Gia Long dựng nên cơ đồ. Khi còn giữ chức Phó tổng trấn Bắc Thành, tuy biết việc nhưng ông vẫn cho đi niêm yết ở chùa.

Đến đây, Nguyễn Gia Cát theo đó làm chiếu chỉ xin gia phong cho Hoàng Ngũ Phúc là “Văn võ bá vương”. Khi bị phát giác khai man, Đặng Trần Thường sợ hãi nhận tội.

Vụ án rất căng thẳng, sau nhiều lần cân nhắc, cuối cùng vua Gia Long quyết định xử chém Vũ Quý Đình (chém ngay, không xét xử), Đặng Trần Thường và Nguyễn Gia Cát đều bị xử trảm (để xử chém) nhưng bị tạm giam để xét xử. “kháng cáo của bản án”). Mãi đến tháng 7 năm Quý Dậu 1813, hai người mới được tha.

Đây là trường hợp “thần oan” duy nhất trong lịch sử triều Nguyễn. Sau khi được trả tự do, Nguyễn Gia Cát về làng mở trường dạy học và mất tại quê nhà năm 1816.

“Nước ta từ Trần, Lê về, Nam Bắc chia đôi, quyết lấy đâu ra đấy. Nay vua tôi dậy từ Gia Định, lên kế vị Thăng Long, nên đặt tên là Gia Long ”.

– Lời đối đáp của Nguyễn Gia Cát trước sự tráo trở của vua Thanh.

Thanh Thuy

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *