GS Trần Đại Nghĩa – Tấm gương về nghị lực, nhân cách và cống hiến

Rate this post

Chú thích ảnh
Bác Hồ làm việc với Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa. Ảnh tư liệu

Lịch sử dựng nước và giữ nước đã ghi lại truyền thống rất riêng của dân tộc Việt Nam về ý chí tự lực, tự cường trong việc chế tạo vũ khí đánh giặc ngoại xâm. Trong thời đại Hồ Chí Minh, một trong những người có công lớn trong việc giữ lửa và truyền ngọn lửa tự hào dân tộc là Thiếu tướng, Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa. Anh còn được tôn vinh là cánh chim đầu đàn của nền công nghiệp quốc phòng nước ta.

Tuổi trẻ và hoài bão lớn

Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa tên thật là Phạm Quang Lễ, sinh ngày 13 tháng 9 năm 1913, tại xã Xuân Hiệp, xã Vang Bình, Vĩnh Long, Nam Bộ, trong một gia đình nhà giáo nghèo có truyền thống yêu nước. .

Mồ côi từ năm 6 tuổi, mẹ và chị gái đã tần tảo nuôi anh vượt khó đến trường. Phạm Quang Lễ luôn ghi nhớ lời căn dặn cuối cùng của cha trước khi đi xa: “… phải lo học, phải biết đem kiến ​​thức của mình ra giúp ích cho thiên hạ”.

Sau này, GS Trần Đại Nghĩa viết: “Tuổi trẻ thật đáng quý. Khi có định hướng là khi chúng ta không đánh mất mình trong dòng đời. Tuổi trẻ đủ sức giúp ta đứng dậy mỗi khi bị những thế lực tàn bạo quật ngã. Tuổi trẻ hãy can đảm vượt qua con đường cô đơn, thầm lặng để đến với tương lai. Tuổi trẻ khao khát tình yêu và cuộc sống, nhưng khi có ý chí, có thể đặt hết khát vọng vào tình yêu lớn. Bây giờ tôi muốn nói lại với các con tôi và tất cả các bạn trẻ như vậy. Đó là kinh nghiệm của cuộc đời tôi. “

Năm 1933, chàng thanh niên 20 tuổi Phạm Quang Lễ đã đỗ thành công hai bằng tú tài: Tú tài Tây và Tú tài bản xứ.

Tháng 9 năm 1935, nhận học bổng du học Pháp từ Hội hữu nghị trường Chasseloup Laubat. Trong số hàng nghìn người Việt Nam sang Pháp du học, có lẽ chỉ có Phạm Quang Lễ là có quyết tâm nghiên cứu vũ khí. Nhưng đây là khu vực bí mật và tuyệt đối cấm thực dân xâm nhập. Chỉ cần để lộ ý định này, anh ta sẽ bị trục xuất khỏi Pháp ngay lập tức. Vì vậy suốt 11 năm ở Pháp, anh chỉ biết mò mẫm, bí mật tìm hiểu, sưu tầm tài liệu về vũ khí.

Để tham gia vào lĩnh vực này, bạn cần phải giỏi khoa học cơ bản, toán học, cơ học, hóa học và kỹ thuật. Vì vậy, Phạm Quang Lễ đã thi lấy bằng cử nhân khoa học tại Đại học Sorbonne, kỹ sư cầu đường tại Trường Quốc gia Cầu đường, kỹ sư điện tại Đại học Điện, và kỹ sư hàng không. tại Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia. kỹ thuật hàng không, đồng thời thi lấy chứng chỉ ĐH Công nghệ, ĐH Mỏ. Ngoài ra, anh còn tự học tiếng Đức để đọc các tài liệu tiếng Đức từ bản gốc.

Năm 1939, Phạm Quang Lễ làm việc tại Công ty Điện lực Thomson và sau đó tại Viện Nghiên cứu Máy bay và Vũ khí của Pháp. Năm 1942, ông sang Đức làm việc trong Nhà máy Máy bay và Viện Nghiên cứu Vũ khí và Kỹ thuật Hàng không. Sau đó, ông trở lại Pháp để làm việc tại một công ty nghiên cứu và phát triển máy bay của Pháp.

Cuộc gặp gỡ định mệnh

Ngày 22/6/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến Paris. Đứng trong đoàn kiều bào ra đón Bác, ông Phạm Quang Lễ rất bất ngờ khi thấy Chủ tịch nước ăn mặc rất giản dị với vẻ mặt hiền lành, vui vẻ, khiêm tốn và đôi mắt rất sáng. Thông qua Bác sĩ Hoàng Xuân Mãn (em trai Giáo sư Hoàng Xuân Hãn), Chủ tịch Hội Việt kiều tại Pháp, chỉ ba ngày sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đến Paris, kỹ sư Phạm Quang Lễ đã tiếp Người.

Những ngày Bác ở Pháp và trên đường về nước, Bác thường đi theo Bác. Chính điều này đã có ảnh hưởng quyết định đến cuộc đời hoạt động cách mạng của ông. Có lần, Bác Hồ hỏi Phạm Quang Lễ: “Tâm nguyện của cháu lúc này là gì?”. Anh trả lời ngay điều mà anh đã ấp ủ từ lần đầu lên đường: “Dạ thưa anh, nguyện vọng cao nhất là được trở về Tổ quốc và cống hiến hết sức lực, tinh thần”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh hỏi lại: Đời sống trong nước còn nhiều khó khăn, về nước có chịu được không? Phạm Quang Lễ trả lời: Dạ, em không chịu được. Trong nước không có kỹ sư, công nhân về vũ khí, máy móc lại thiếu, liệu bạn có đi làm được không? Phạm Quang Lễ trả lời: Đúng vậy, tôi tin là có thể làm được vì tôi đã chuẩn bị mười một năm ở Pháp.

Trở về Hà Nội chỉ có bảy ngày nghỉ ngơi, kỹ sư Phạm Quang Lễ phải vào ngay xưởng quân giới Giang Tiên ở Thái Nguyên để nghiên cứu, chế tạo súng chống tăng, dựa trên mẫu súng Bazoka của Mỹ với hai viên đạn dự phòng. Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu cung cấp. Chỉ vài ngày sau khi bắt đầu công việc, ông nhận được điện thoại của Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu gọi ông ra Hà Nội gấp để gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Ngày 5/12/1946, trước ngày toàn quốc kháng chiến, ở Việt Bắc đồng chí được Bác Hồ giao trọng trách quan trọng. Bác nói: “Cuộc kháng chiến đang đến, hôm nay Bác quyết định giao nhiệm vụ cho tôi là Cục trưởng Cục Quân giới. Tôi sẽ lo trang bị vũ khí cho bộ đội. Đây là sự nghiệp lớn. Vì vậy, từ nay trở đi. Bác đổi tên là Trần Đại Nghĩa … ”.

Đến những phát minh chấn động chiến trường

Trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, sự hy sinh của những chiến sĩ cảm tử ôm bom ba càng lao thẳng vào xe tăng địch đã thôi thúc ông nhanh chóng nghiên cứu, hoàn thiện các loại vũ khí phòng không cho quân ta.

Và ngày 3 tháng 3 năm 1947 đã trở thành một mốc son của Ngành Quân giới Việt Nam trong việc chế tạo vũ khí, khí tài. Đó là ngày chiếc bazoka do Tổng cục trưởng Trần Đại Nghĩa chế tạo lần đầu tiên vào trận và chiến thắng, tiêu diệt ngay 2 xe tăng địch sau hai phát súng đầu tiên. Bazoka do ông chế tạo có tầm bắn tới 600 m, độ xuyên đạt 75 cm trên tường gạch, tương đương sức xuyên của đạn bazoka do Mỹ sản xuất trong Thế chiến thứ hai. Trong chiến dịch thu đông năm 1947, bazoka cũng đánh chìm một tàu chiến của Pháp trên sông Lô. Bazoca trở thành vũ khí đáng gờm của quân viễn chinh Pháp.

Trước tình hình thực dân Pháp đổ thêm người, tài sản vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, để đối phó với quân địch có trang bị hiện đại hơn, Trần Đại Nghĩa, lúc này đã được phong quân hàm Thiếu tướng, đã quyết định nghiên cứu, chế tạo Súng không giật SKZ – một loại súng nhẹ, có thể vận chuyển và mang theo dễ dàng, nhưng có sức công phá đại bác và bom bay. Loại đầu tiên trong hệ thống SKZ là SKZ 60 cm, được sử dụng trong các chiến dịch năm 1949. SKZ khiến kẻ thù khiếp sợ, buộc chúng phải xây dựng lại toàn bộ hệ thống công sự, đồn bốt. Trong cuốn sách “Chiến tranh Đông Dương”, Lucien Bodard viết: “Chỉ cần vài phát đạn là có thể phá hủy tháp canh của chúng tôi. Dưới tác động của đạn lõm, tất cả đều sụp đổ”.

Sau SKZ, anh tiếp tục nghiên cứu và chế tạo thành công tên lửa nặng 30 kg, có thể bắn trúng mục tiêu cách xa 4 km. Tất cả những nghiên cứu của ông đã góp phần làm nên thắng lợi quan trọng của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, đồng thời đưa trí tuệ Việt Nam vươn tới đỉnh cao của khoa học thế giới, một chiến công phi thường của quân và dân ta trong khó khăn, gian khổ. điều kiện bần cùng lúc bấy giờ.

Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, một lần nữa, dưới sự lãnh đạo của Giáo sư Trần Đại Nghĩa, chúng ta đã chế tạo thành công nhiều loại vũ khí sử dụng vật liệu sẵn có, công nghệ đơn giản như: Ngư lôi chế áp. Công suất ABS, các loại mìn, xạ thủ kể cả đối với lực lượng đặc biệt nguy hiểm; đặc biệt là những cải tiến trên tổ hợp pháo phản lực ĐKB-H12 của Liên Xô.

Từ những năm 1950 đến cuối đời, nhà khoa học Trần Đại Nghĩa được Đảng, Nhà nước tin tưởng giao nhiều trọng trách trên nhiều lĩnh vực khác nhau như: Cục trưởng Cục Quân khí, Cục trưởng Cục Pháo binh, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Hậu cần, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật, Chủ nhiệm Ủy ban Xây dựng cơ bản Nhà nước, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và Công nghệ Nhà nước, Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Công Thương, Thứ trưởng Bộ Công Thương. , Thứ trưởng Bộ Công nghiệp nặng, Chủ tịch thứ nhất Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Hiệu trưởng thứ nhất Trường Đại học Bách khoa Hà Nội; Đại biểu Quốc hội khóa II, khóa III.

Dù hoạt động trên nhiều lĩnh vực, với cương vị, chức vụ khác nhau nhưng ở bất cứ đâu và trong hoàn cảnh nào, Thiếu tướng, Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. nhiệm vụ được giao. Cuộc đời hoạt động và cống hiến của GS Trần Đại Nghĩa đã nêu một tấm gương về nghị lực, nhân cách, cống hiến trong lao động và nghiên cứu khoa học.

Với những đóng góp to lớn cho nhân dân, cho đất nước, Thiếu tướng, Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa đã được tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh và danh hiệu Anh hùng Lao động tại Đại hội Chiến sĩ thi đua. cán bộ gương mẫu toàn quốc lần thứ nhất năm 1952. Năm 1966, ông được bầu làm Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô. Năm 1996, Giáo sư Trần Đại Nghĩa được Nhà nước Việt Nam tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh lần thứ nhất cho cụm công trình nghiên cứu và chỉ đạo kỹ thuật chế tạo vũ khí (bazooka, súng không giật, đạn bay) thời kỳ. kháng chiến chống Pháp 1945-1954.

Ngày 9 tháng 8 năm 1997, Giáo sư Trần Đại Nghĩa qua đời. Trong cuộc đời của mình, ông đã từng nói, “Những người bạn của tôi ở lại Pháp hạnh phúc và đầy đủ hơn tôi rất nhiều. Nhưng trên phương diện phụng sự Tổ quốc, họ không có gì cả ”. Và đúng như cái tên Bác Hồ đã đặt cho ông, cả cuộc đời ông đã sống cho khát vọng cống hiến hết mình cho sự nghiệp vĩ đại của dân tộc.

Tên tuổi của anh đã gắn liền với nhiều giải thưởng, tên đất, tên đường, tên trường. Tấm gương của Giáo sư Trần Đại Nghĩa sẽ tiếp tục truyền cảm hứng cho thế hệ trẻ về nghị lực và sự dấn thân vào khoa học, quyết tâm gắn khoa học với phục vụ những yêu cầu thiết thực và cấp thiết nhất đối với khoa học. sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thanh Thuy

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *