“Lý Toét lên tỉnh”: Khi triều đình mới xuất hiện (phần 1)

Rate this post

1. Để tái hiện bộ mặt đô thị hiện đại Việt Nam đầu thế kỷ XX, bằng những nét vẽ ngắn gọn, súc tích nhất, có thể bắt đầu bằng những con số. Ví dụ về quy mô, các đô thị hiện đại thường có diện tích lớn và được tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng tương đối có hệ thống. Sau hai cuộc khai thác của thực dân Pháp, Sài Gòn – Chợ Lớn, Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định … lần lượt đảm nhận vai trò của một thành phố mới, mang tính chất trung tâm của cả kinh tế, xã hội và các thành phố khác. các hoạt động văn học, văn nghệ.

Bài 1:
Tòa án Hà Nội chụp vào khoảng năm 1910. (Ảnh: Tư liệu)

Tầng lớp người “tỉnh lẻ” cũng bắt đầu tăng lên, tuy không áp đảo được số lượng người ở nông thôn. Năm 1936, theo nhà sử học Nguyễn Thế Anh, Việt Nam có 18 tỉnh lỵ với hơn 10.000 dân, khoảng 800.000 người trong tổng số khoảng 19 triệu người sống ở các tỉnh đó. Đối với Bắc Kỳ, ba tỉnh chính ở đây cũng có sự khác biệt đáng kể: Hà Nội có 125.000 người trong khi Hải Phòng và Nam Định lần lượt là 80.000 và 30.000 người.

Với việc Hà Nội, tỉnh lỵ được lấy làm thủ đô của cả Đông Dương năm 1902, nhà nghiên cứu Philippe Papin cũng cho rằng “phát triển rất nhanh, dân số tăng từ 5 vạn năm 1880 lên 200 vạn năm 1940”. . Sự gia tăng dân số ngày càng khó kiểm soát của Hà Nội, tất nhiên, không bao gồm làn sóng di cư từ nông thôn diễn ra từ đầu những năm 1930, là bằng chứng cho thấy sức hút khó cưỡng của thành phố, trước cả về sinh kế, môi trường sống và trong dài hạn hơn là cơ hội thăng tiến.

Nhưng để thấy rằng đằng sau những con số là hàng loạt chính sách và sự kiện, tác nhân và hệ quả, cộng sinh và phản đối, chúng ta nên dừng lại trước cảm xúc của một số ít du khách đã từng đến Hà Nội trước đây. mà nó đã chuyển từ thủ đô thời trung cổ đến thành phố thuộc địa của Pháp. Vị khách quan trọng đầu tiên, Paul Doumer, người có tham vọng đưa Đông Dương trở thành một quốc gia thứ hai, đến sống ở Hà Nội vào tháng 3 năm 1897, đã thấy rõ “khu phố cổ kính của An Nam, phố xá chật hẹp, nhà thấp, hàng quán san sát. đường phố, người đông đúc. ” Khu phố này, theo anh, là “Hà Nội thực sự”, còn khu phố Tây thì “không có gì đáng kể”.

Nhìn chung, ông ấn tượng với Sài Gòn là “một thành phố đã được thành lập”, và Hà Nội là một thành phố “chỉ mới phác thảo, còn rất nhiều việc phải làm”. Kết quả của công việc đó của Toàn quyền Doumer và những người kế nhiệm, Hà Nội trở nên sôi động và đầy màu sắc và về mặt quản trị, có một bộ máy chính quyền khá chặt chẽ nằm trong các cơ quan công quyền. đàng hoàng, đàng hoàng.

Cảnh tượng của “những căn lều cao bốn hoặc năm mét được xây dựng từ gỗ và mái tranh […] Đường rộng nhưng không trải nhựa, đất làm đường là đất sét, là loại đất dù mưa to một chút cũng rất trơn, dễ trượt “như trong báo cáo của Francesco Moro về Hà Nội năm 1887 Lin, một trung úy Hải quân Ý, đã làm. không hoàn toàn biến mất, mà có sự xuất hiện của Dinh Toàn quyền Đông Dương (1907), Dinh Công sứ Bắc Kỳ (1919), Ty Cảnh sát (1915), Sở Bưu điện (1922), Sở Tài chính (1931) , hay Ga Hà Nội (1901), Cầu Doumer (1902), Nhà hát Lớn (1912), Bảo tàng Louis Finot (1931) …, khiến Hà Nội như một Paris mùa thu. Nhiều thập kỷ của thế kỷ XX, theo P. Papin, “chính quyền thuộc địa ở khắp mọi nơi, đặt dấu ấn của nó không chỉ ở trung tâm thành phố, mà còn ở vùng ngoại vi. “.

2. Với mong muốn vun đắp những giá trị cơ bản của nền cộng hòa ở thuộc địa, ngoài trường học, nhà thờ, bệnh viện, khách sạn, người Pháp không quên xây dựng một cơ quan thiết yếu: Tòa án Hà Nội (Palais). de Justice à Hanoi). Công trình này do Henri Vildieu thiết kế theo phong cách kiến ​​trúc tân cổ điển, được xây dựng từ năm 1906 đến năm 1908 trên khu đất giáp đại lộ Carreau (Lý Thường Kiệt), đại lộ Rollandes (Hai Bà Trưng) và phố Fours (Lý Thường Kiệt). Hỏa Lò).

Mặc nhiên, Tòa án Hà Nội lọt vào mắt xanh của người dân địa phương bởi khối đế nặng nề, hệ thống cột thông tầng từ giải pháp nâng cột tròn tạo nên sự bề thế, uy nghi cho một cơ quan công quyền. Tòa án Hà Nội, bằng nhiều cách sẽ dần đi vào tâm thức của người dân phố thị nơi đây như một biểu tượng của công lý. Đặt trong sự trưởng thành của nhà nước hiện đại, Tòa án Hà Nội dù vận hành theo cách nào cũng là một dấu hiệu cho thấy vai trò của chủ thể chính quyền đã được cụ thể hóa thông qua các thiết chế theo mô hình phương Tây. Hướng Tây.

Sự nhạy cảm và hào hứng với những điều mới mẻ khiến người dân thị trấn không thể giấu được sự tham gia của họ. “Người đủ loại, đủ trò / Thanh lịch cũng nhiều chiêu” mỗi lúc một rầm rộ, hỗn loạn chẳng ai muốn dừng lại. “Không chỉ những người nông dân phá sản bỏ chạy lên thành phố – học giả Trần Đình Hựu nhận xét – mà cả những nhà Nho cũng vào thành phố. Dần dần họ đô thị hóa, tiểu tư sản”.

Tất nhiên, quá trình này đòi hỏi mỗi cá nhân phải biết tính toán, có mục đích và con đường thực hiện, thậm chí là bước qua những rào cản đạo đức từng tồn tại. Nếu được cho “sâm banh buổi tối, buổi sáng uống sữa bò” như đã nói, thì người thầy thông thái vẫn đáng mặt. Vì vậy, ở đây, giới trí thức tân cổ điển, hầu hết xuất thân hoặc gắn bó với thành phố, trưởng thành và sớm tiếp xúc với môi trường văn hóa – giáo dục của Pháp, sẽ là những người cởi mở hơn về mọi thứ. thứ hạng.

Trong tâm hồn họ không còn chung nhịp với thế giới Nho giáo cuối mùa. Không chỉ về trình độ học vấn, kiến ​​thức, ngay cả sinh hoạt hàng ngày, từ quần áo, phương tiện đi lại, ngôn ngữ giao tiếp, đến thú tiêu khiển, giải trí, tầng lớp này, kể cả cấp 2, cấp 3, thượng lưu cũng có nhiều khác biệt. Họ có mặt, tham gia và trở thành chủ thể của mọi hoạt động kinh tế, văn học nghệ thuật lúc bấy giờ. Họ chấp nhận mang tiếng xấu “thân cò trắng bạc / bỏ cha bỏ mẹ nuôi Lang Sa” để được bước chân vào chốn công chức hoàn lương.

Khi Vũ Đình Liên thốt lên “Người xưa / hồn nay ở đâu” (1936), thì ít nhất ở Hà Nội, một thế hệ tân sinh mới có khả năng đóng vai trò định hình tâm trạng và hành vi của thời đại. . Nhưng cũng cần lưu ý rằng, những trí thức này dù có bằng cấp nhưng vẫn không dễ thăng tiến trong nấc thang chính quyền, vì vậy để kiếm sống và duy trì sự tồn tại tối thiểu, họ vẫn phải tiếp tục hai công việc. “Gia truyền” của các nhà Nho trước đây là dạy học và viết văn (văn học). Nghề mới hứa hẹn nhất tất nhiên đòi hỏi kiến ​​thức và thực hành mới, mà họ dần dần chiếm đa số là nghề báo, trở thành nhà báo.

Tự Lực Văn Đoàn, dưới góc độ nghề nghiệp, là tập hợp những người viết báo, dưới sự định hướng chuyên nghiệp hóa của Nhất Linh, những người am hiểu sâu sắc về nghề này. Và việc họ chủ yếu viết về văn hóa trên hai tờ báo Phong hóa và Ngày nay, thực ra là một lĩnh vực có lượng độc giả ổn định, là điều kiện then chốt để duy trì nguồn tài chính giữa thời buổi khó khăn. Sự cạnh tranh của các tờ báo khá khốc liệt. Một nghề mới với vị trí tiên phong như vậy, ít nhiều đem lại niềm tin cho nhóm người trong cuộc.

Ngay lập tức, họ tìm cách chế giễu và châm biếm những nghề dựa trên một cấu trúc xã hội cơ hội hoàn toàn tự trị, không rõ ràng. Trong số những thế mạnh tạo nên sức hút của hai tờ báo, Tự Lực Văn Đoàn đầu tư nhiều thời gian cho việc vẽ những bức tranh châm biếm, trào phúng và nhân vật Lý Toét thuộc hàng biếm họa bất hủ. Một Lý Toét với chiếc ô trên tay, đôi chân đi guốc và chiếc khăn trên đầu là hình ảnh phản chiếu của hầu hết chân dung chính quyền địa phương trong làng, đồng thời cũng là hiện thân của cái cũ kỹ, lạc hậu, khờ khạo nhưng không sẵn sàng từ bỏ quyền của mình. uy tín, qua bức tranh biếm họa, đã trở nên hài hước và bi kịch.

Bài 1:
Biếm họa một lần Lý Toét bị xử tù (ảnh cắt từ báo Phong hóa, số 85, ngày 11-2-1934).

3. Sau lần đầu tiên xuất hiện, “Lý Toét đi tỉnh” trên Phong Hóa số 48, ra ngày 26/5/1933, những tình huống va chạm với văn minh đô thị của Lý Toét đã được phơi bày, vạch trần bản chất của nghề. già nua, hợm hĩnh, ngu dốt. “Ngoại thành”, rõ ràng, là thách thức của một lối sống mới dựa trên điều kiện vật chất và đô thị mà Từ Lương Văn Đoàn muốn dựng lên để bêu rếu và sỉ nhục cái được coi là cái ao tù đầy của Việt Nam. xã hội trọng nông truyền thống. Trong vô số chuyến “xuất ngoại”, đáng chú ý có lần Lý Toét bị quan xử tội: Lý Toét có một người con gái lớn tên là Ba Vành nhưng đã bỏ nhà đi miền Tây, sống ở vùng mỏ. Hai cha con thường xuyên viết thư cho nhau.

Có lần, Lý Toét bị kết án 3 tháng tù vì tội gửi thư có con dấu. Lý Toét tự bào chữa trước quan toà: “Xin ngài phán xét giùm tôi, nhưng lần nào nhận thư của Tam Nhẫn, tôi lại thấy có con tem!”. Hình vẽ châm biếm này khoét sâu vào sự vô lý của các chức sắc địa phương trước đây. Nhưng quan trọng hơn, lý do anh ta phạm luật dường như quá thô sơ trong khi hình phạt (mới) không hề dễ chịu. Nhóm tự lực cánh sinh đang muốn cảnh báo tầng lớp cũ rằng họ không thể trượt theo sức ì của luật cũ một khi luật pháp và các tòa án đã được chính quyền thực dân thiết lập từ lâu?

(Còn nữa)

Thanh Thuy

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *