Nỗ lực giảm nghèo đa chiều: Còn nhiều thách thức phía trước

Rate this post

Tuy nhiên, tình trạng nghèo đói tồn tại ở các dân tộc thiểu số và dân cư ở các vùng ven biển và hải đảo đang là thách thức đối với Việt Nam trong việc đạt được các Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDGs). Đại dịch Covid-19 đã khiến những nỗ lực xóa đói giảm nghèo gặp nhiều khó khăn.

THÀNH TÍCH XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO ĐƯỢC QUỐC TẾ CÔNG NHẬN

Những thành tựu đáng kể của Việt Nam trong công cuộc xóa đói giảm nghèo đã được quốc tế ghi nhận: tỷ lệ hộ nghèo đã giảm mạnh từ 57% vào đầu những năm 90 xuống còn 5,2% vào năm 2020.

Nhận thức được chất lượng cuộc sống của người dân không chỉ từ thu nhập, mà còn từ nhiều khía cạnh khác có liên quan, tháng 11/2015, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Hệ thống chỉ số nghèo đa chiều quốc gia áp dụng cho giai đoạn 2016 – 2020, đánh dấu một bước chuyển mình quan trọng của Việt Nam từ một cách tiếp cận nghèo dựa trên thu nhập đối với nghèo đa chiều.

Bà Kanni Wignaraja - Trợ giúp Tổng thư ký ký Liên hợp quốc Giám đốc giáregional Châu Á-Thái Bình Dương của UNDP
Bà Kanni Wignaraja – Trợ lý Tổng Thư ký Liên hợp quốc kiêm Giám đốc Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương của UNDP

Đầu tư và các chính sách cần thiết để khuyến khích và cải thiện việc làm hiệu quả; Cải thiện việc cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản có chất lượng và cải thiện khả năng tiếp cận cho cộng đồng ở các vùng sâu, vùng xa; Mở rộng bảo trợ xã hội, không phải như một phản ứng tạm thời đối với các cuộc khủng hoảng, mà là một hệ thống lâu dài linh hoạt và cởi mở hơn; Mở rộng việc sử dụng số hóa trong hiệu suất, nền kinh tế tri thức …

Việt Nam là quốc gia tiên phong trong khu vực áp dụng chuẩn nghèo đa chiều, phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế, làm cơ sở đánh giá kết quả thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc đến năm 2020, 2030 (UNDP ).

Chương trình đánh giá này là một bước tiến quan trọng trong quá trình Việt Nam chuyển đổi từ cách tiếp cận đo lường nghèo dựa trên thu nhập sang cách tiếp cận dựa trên đa tiêu chí.

Mới đây, Báo cáo nghèo đa chiều 2021 do Bộ LĐ-TB & XH, Ủy ban Dân tộc, Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) phối hợp thực hiện với sự hỗ trợ của Bộ Ngoại giao. và Trade Australia (DFAT) và hợp tác kỹ thuật từ Trung tâm Phân tích và Dự báo thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (CAF / VASS), cũng nêu rõ, trong thập kỷ qua, những thành tựu xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam đều rất ấn tượng.

Đặc biệt, tỷ lệ nghèo đa chiều đã giảm liên tục và đáng kể, từ 18,1% năm 2012 xuống 10,9% năm 2016 và 4,4% năm 2020. Đáng chú ý là, tỷ lệ nghèo về thu nhập luôn thấp hơn tỷ lệ nghèo đa chiều trong hơn một thập kỷ qua. , khoảng cách giữa hai tỷ lệ này đã được thu hẹp đáng kể, chỉ còn 0,6 điểm phần trăm vào năm 2020.

Điều này cho thấy, tỷ lệ dân số cận nghèo có thu nhập từ 3 mức trở lên đã giảm đáng kể trong giai đoạn 2016-2020.

Báo cáo cho biết: “Một trong 10 người có thu nhập nghèo vào năm 2014, nhưng một nửa trong số họ đã thoát nghèo bền vững trong thời kỳ trước đại dịch”.

Nỗ lực giảm nghèo đa chiều: Còn nhiều thách thức phía trước - Ảnh 1

So sánh giữa khu vực nông thôn và thành thị cũng cho thấy sự chênh lệch không lớn với tỷ lệ thoát nghèo bền vững chiếm tỷ lệ áp đảo trong số hộ thoát nghèo năm 2016.

Tuy nhiên, Báo cáo cũng cho thấy sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm dân tộc. Tỷ lệ không nghèo của nhóm dân tộc thiểu số thấp hơn đáng kể so với nhóm Kinh-Hoa (48,7% so với 93,2%).

Đồng thời, tình hình thoát nghèo của đồng bào dân tộc thiểu số kém bền vững hơn so với dân tộc Kinh-Hoa: 20% nhóm dân tộc thiểu số thoát nghèo năm 2016 trở lại nghèo vào năm 2018, trong khi tỷ lệ này của nhóm Kinh-Hoa là chỉ 7,6%.

Nỗ lực giảm nghèo đa chiều: Còn nhiều thách thức phía trước - Ảnh 2

Báo cáo đánh giá Việt Nam đã đạt được tiến bộ trong việc giảm nghèo đa chiều nhờ tăng việc làm hiệu quả; cải thiện các dịch vụ xã hội; mở rộng hệ thống bảo trợ xã hội. Tuy nhiên, tình trạng dễ bị tổn thương và chênh lệch vẫn là những thách thức lớn. Mặc dù chuyển đổi kỹ thuật số trong lĩnh vực giáo dục đang gia tăng, nhưng bất bình đẳng trong tiếp cận công nghệ và thiết bị vẫn là một thách thức.

Khoảng cách kỹ thuật số sâu sắc hơn trong thời gian của Covid-19. Khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế đã được cải thiện, nhưng vẫn còn chênh lệch, đặc biệt là giữa y tế tuyến trên và y tế cơ sở. Về bảo trợ xã hội, các chương trình trợ giúp tiền mặt có phạm vi bao phủ hạn chế và lợi ích thấp …

KHAI THÁC CÁC MÔ HÌNH, SÁNG KIẾN XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO TỐT

Hiện Việt Nam đã trải qua 6 lần điều chỉnh tiêu chí nghèo cho phù hợp với tình hình thực tế. Từ tiêu chí về lương thực đảm bảo cơm ăn, áo mặc, đến việc áp dụng giá cả, thu nhập, mức sống tối thiểu … và hiện nay chúng ta đang áp dụng chuẩn nghèo đa chiều.

Ông Hầu A Lềnh, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc
Ông Hầu A Lềnh, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc

Việc áp dụng phương pháp tiếp cận nghèo đa chiều đã hỗ trợ rất nhiều trong việc xây dựng, thực hiện và đo lường mức độ thành công của các chính sách dân tộc. Cơ sở hạ tầng thiết yếu vùng đồng bào dân tộc thiểu số được đầu tư cơ bản, giáo dục đào tạo, đời sống văn hóa, y tế đồng bào dân tộc thiểu số được quan tâm sâu sát.

Về phương thức giảm nghèo, Việt Nam đã chuyển từ phương thức Nhà nước phải bảo đảm hoàn toàn ngân sách sang phương thức Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, chỉ đạo; người dân, hộ nghèo là đối tượng ..

Việc Chính phủ ban hành Nghị định số 07/2021 / CP quy định chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều giai đoạn 2021-2025, trong đó giai đoạn 2022-2025 áp dụng chuẩn nghèo đa chiều mới khiến hộ cận nghèo tăng từ 5,2% năm 2020 lên 9,35% năm 2022.

Tuy nhiên, điều đó có nghĩa là sẽ có thêm 10 triệu người được hưởng lợi từ các chính sách và chương trình mục tiêu của Chính phủ về bảo trợ xã hội và giảm nghèo trong giai đoạn 2021-2025.

Đánh giá về kết quả giảm nghèo trong thời gian qua, ông Lê Văn Thành, Thứ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội nhấn mạnh, trong thời gian qua, công tác giảm nghèo đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật. Hệ thống chính sách, pháp luật về giảm nghèo được ban hành khá đồng bộ, toàn diện.

Đã có hàng triệu hộ thoát nghèo, nhiều hộ có đời sống trung bình và khá; nhiều vùng nghèo thoát khỏi tình trạng khó khăn, một số vùng đạt chuẩn nông thôn mới; tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh. Tuy nhiên, kết quả giảm nghèo của Việt Nam chưa thực sự bền vững, nguy cơ tái nghèo và tái nghèo còn cao.

Nguồn: Bộ lao động thương binh và xã hội
Nguồn: Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội

Khoảng cách về mức sống, điều kiện tiếp cận các dịch vụ cơ bản, tiếp cận thị trường, giải quyết việc làm giữa các địa phương, vùng, miền, nhóm dân cư chưa được thu hẹp nhiều … Chưa kể, hai năm đại dịch Covid -19 đã có một tác động lớn đến công tác này, càng khó khăn hơn cho công tác giảm nghèo bền vững trong giai đoạn tới.

Theo ông Tô Đức, Chánh Văn phòng Quốc gia về giảm nghèo, chưa bao giờ công tác giảm nghèo của cả nước lại gặp nhiều khó khăn, thách thức như thời điểm này. Thiên tai và dịch bệnh có thể làm tăng đáng kể số lượng hộ nghèo, đặc biệt là người nghèo thành thị.

Trong bối cảnh đó, việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 có nhiều điểm mới cốt lõi so với giai đoạn 2016-2020. Đó là phấn đấu tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo tiếp cận duy trì giảm 1,0 – 1,5% / năm; tỷ lệ hộ nghèo đồng bào dân tộc thiểu số giảm trên 3,0% / năm; 30% số huyện nghèo, 30% số xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bằng, bãi ngang ven biển và hải đảo thoát nghèo, ĐBKK.

Bên cạnh đó, sẽ thay đổi cách thức hỗ trợ người nghèo; nhân rộng các mô hình, sáng kiến ​​giảm nghèo giỏi; Ứng dụng kết quả nghiên cứu của các tổ chức quốc tế trong xóa đói, giảm nghèo phù hợp với từng địa phương là cách Việt Nam thực hiện tốt các mục tiêu mới trong giai đoạn 2021-2025.

Chuẩn thu nhập theo tiêu chí đo lường nghèo đa chiều của Chính phủ giai đoạn 2022-2025 quy định:

Khu vực nông thôn 1,5 triệu đồng / người / tháng

Khu vực thành thị 2 triệu đồng / người / tháng.

Chuẩn nghèo về thu nhập đã tăng gần gấp đôi so với chuẩn nghèo cũ. Theo đó:

+ Khu vực nông thôn là 700.000 đồng / người / tháng;

+ Khu vực thành thị 900.000 đồng / người / tháng.

Tiêu chí về mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản bao gồm các dịch vụ xã hội cơ bản (gồm 6 dịch vụ: việc làm; chăm sóc sức khỏe; giáo dục; nhà ở; nước và vệ sinh; thông tin) và các dịch vụ khác. chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản.

Thanh Thuy

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *