Nối dài giai điệu trăm năm | Báo Quảng Nam TRỰC TUYẾN

Rate this post

Trong những ngày diễn ra lễ hội trên khắp mọi miền xứ Quảng, những ai yêu thích trống trận đều thấy lòng mình lấp lánh niềm vui. Những làn điệu có từ hàng trăm năm trước, được con người ngày nay …

Trích vở kịch
Trích vở tuồng “Ngao và sò” vừa đoạt giải nhất Liên hoan Dân ca ví, giặm Quảng Nam năm 2022. Ảnh: MT

Nghe những câu chuyện lịch sử

Với những giá trị đặc sắc, nghệ thuật tuồng Quảng Nam có đủ nền tảng để trở thành di sản văn hóa phi vật thể phong phú của vùng đất. Năm 2015, khi tuồng xứ Quảng được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, những người hoạt động nghệ thuật trong lĩnh vực này vui mừng khôn xiết.

Bởi vốn quý, tinh hoa của dân tộc còn được ghi nhận là ký ức về quê hương của chính mình. TS Trần Thị Minh Thu – Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam cho rằng, đất Quảng ngay từ bề dày lịch sử đã quá thú vị khi chỉ với tuồng cổ đã cho thấy một hành trình phát triển chứa đựng nhiều giá trị. và trải qua nhiều thay đổi và thử thách.

“Cuối thế kỷ 18, Quảng Nam có phong trào tuồng sôi nổi để đến đầu thế kỷ 19, dòng tuồng Nam Kỳ gắn với cái nôi của tuồng Quảng Nam là đoàn tuồng của làng Đức Giáo, Khánh Thọ. . Từ hai trung tâm tuồng này, nghệ thuật tuồng lan rộng ra các vùng khác.

Sau này, Quảng Nam còn hình thành một dòng tuồng khác là tuồng Đàng Ngoài, tập trung ở Hội An, Vĩnh Điện, Bàu Toa với những hình thức diễn xướng cải lương. Những năm 20 của thế kỷ 20, dòng tuồng thứ ba xuất hiện, đó là dòng tuồng của Nguyễn Hiển Dĩnh gắn với tuồng Vĩnh Điện do Nguyễn Hiển Dĩnh sáng lập ”- TS Trần Thị Minh Thu chia sẻ.

Nhà nghiên cứu Hoàng Châu Ký từng khái quát rằng dòng tuồng của Nguyễn Hiển Dĩnh đã tiếp thu những tinh hoa của tuồng Bắc Bộ, kết hợp với những cải cách của tuồng Đàng Ngoài, từ đó hoàn thiện dần và phát triển thành một loại hình nghệ thuật tuồng Quảng Nam mang những sắc thái riêng biệt mà hiện thực. và xinh đẹp.

Và Quảng Nam, cách đây cả trăm năm cũng là vùng đất đầu tiên hình thành hai hoạt động tuồng riêng biệt là tuồng chuyên nghiệp và tài tử. TS Trần Thị Minh Thu cho rằng, có lẽ bắt nguồn từ cuộc di cư trong lịch sử, khi nhà Nguyễn xây thành, lấy làng Dục Giáo (Phú Xuân) – vốn là vùng đất nổi tiếng với nghề hát tuồng của Việt Nam. thủ phủ, khiến cư dân ở đây di cư vào Quảng Nam và lập nghiệp tại làng Khánh Đức. Vì là cư dân nên người Công giáo phải lấy hát tuồng làm nghề chính để kiếm sống.

Trong khi đoàn tuồng Khánh Thọ thường biểu diễn vào các dịp tế lễ thì ngược lại, đoàn tuồng Khánh Đức biểu diễn khắp nơi và thường xuyên. Do sớm có tính chuyên nghiệp nên tuồng Quảng Nam có điều kiện phát triển mạnh.

Cùng với nhiều tài năng lớn của ngành tuồng, Quảng Nam còn là nơi đầu tiên xuất hiện mô hình nhà hát – đoàn văn nghệ – trường dạy nghề hoạt động khép kín dưới hình thức dân lập thông qua đoàn hát bội Nguyễn Hiển Dĩnh. Điều này, có lẽ vẫn còn nguyên giá trị khi nhìn vào công tác đào tạo diễn viên, hoạt động của các đơn vị nghệ thuật truyền thống hiện nay …

Bảo tồn di sản

Trong số hơn 100 diễn viên tham gia Liên hoan nghệ thuật Tuồng và Dân ca quần chúng toàn tỉnh vừa được tổ chức, chỉ có 1/3 trong số họ tham gia biểu diễn. Cuộc họp có quy mô lớn trên toàn tỉnh nhưng chỉ có 8 địa phương tham gia. Và chỉ có hai huyện Quế Sơn và Duy Xuyên kiên trì đưa tuồng lên sân khấu.

Xem tuồng là một lĩnh vực của ngành văn hóa thì mới có cách vực dậy thể loại này.  Ảnh: XH
Xem tuồng là một lĩnh vực của ngành văn hóa thì mới có cách vực dậy thể loại này. Ảnh: XH

Đại diện Trung tâm Văn hóa – Thể thao huyện Quế Sơn cho biết, địa phương này hàng năm đều tổ chức Liên hoan văn nghệ dân ca quan họ. Quế Sơn không chỉ là cái nôi của tuồng Quảng mà còn là vùng đất có món ăn tinh thần được yêu thích là làn điệu trống trận.

Các vở tuồng cổ từ “Tam Hà Nam Đường”, “Đào Phi Phụng”, “Kiều Nguyệt Nga hồ cống”; “Sơn Hậu”, “Lê Lai thay áo”, “Lã Bố hiêu Thuyên”… vẫn còn trong trí tưởng tượng của những con người lớn lên từ mảnh đất dưới chân núi Chùa này. Vì vậy, không ngạc nhiên khi đặt tên văn hóa cho vùng Quế Sơn, Duy Xuyên, người ta vẫn tự hào nhắc đến là vùng đất trồng tuồng.

Ai còn lưu giữ ký ức ngày xưa theo các đoàn tuồng xưa đi khắp các vùng quê sẽ vẫn còn lưu luyến những cử chỉ ẩn hiện của từng “kép”, từng “đào” – cũng là của từng ấy. Người nông dân được sống trọn vẹn trong không gian của làng quê. Tuồng xuất phát từ các làng quê nên tuồng tất nhiên luôn tồn tại lâu dài.

Làng, nói như nhà văn Nguyên Ngọc, là “cái gien”, là nơi lưu giữ cái “gien” văn hóa Việt Nam, để nó biến đổi nhiều mặt, nhưng chúng tôi vẫn là chúng tôi, chúng tôi đặc biệt và phong phú hơn. Mạnh mẽ hơn, mạnh mẽ hơn ”. Sân khấu của làng luôn có một sức hút kỳ lạ, mỗi khi vang lên tiếng trống trận, tiếng trống chầu. triều cường “…

Tuồng vẫn bám rễ trong môi trường dân gian. Nhưng lớp diễn viên đủ sức diễn và bền bỉ với từng chặng đường lưu giữ tuồng, đã già đi theo tháng ngày. Người say rượu cũng trở thành người già hơn theo từng ngày.

Trong phạm vi bảo tồn, một loại hình di sản văn hóa phi vật thể quốc gia phải được quy hoạch để bảo tồn và phục hưng. Nhưng với tuồng của xứ Quảng, từ ngày được công nhận là di sản cho đến nay, câu chuyện này vẫn còn bỏ ngỏ. Thật thú vị khi thỉnh thoảng trong những buổi họp mặt, chúng ta lại được xem những trích đoạn tuồng cổ. Nhưng câu chuyện bảo tồn và phục hồi một di sản đòi hỏi nhiều hơn những thể hiện như vậy.

Kinh phí hỗ trợ, bảo vệ và phát triển nghệ thuật tuồng khi tuồng được công nhận là di sản vẫn đang trong kế hoạch. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, việc phát triển nghệ thuật tuồng như một sản phẩm du lịch văn hóa hay thậm chí nghệ thuật tuồng cũng thuộc lĩnh vực công nghiệp văn hóa và sáng tạo. Từ đây bắt đầu câu chuyện hồi sinh nghệ thuật tuồng, giống như cách các nước có nền công nghiệp văn hóa phát triển đang làm …

Thanh Thuy

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *