Trước những năm 1990, điện ảnh Việt Nam đang trong cơ chế bao cấp của Nhà nước. Các nhà làm phim tập trung ở các hãng phim nhà nước, nơi cung cấp tiền cho mọi chi phí sản xuất. Điện ảnh thời bao cấp phục vụ mục đích tuyên truyền, phim là sản phẩm nghệ thuật mang đậm bản sắc tác giả.
Cơ chế bao cấp đã theo phim Việt từ lâu, kể cả khi điện ảnh bước vào xã hội hóa. Thị trường mở cửa vào những năm 1990 và sau năm 2000 chia thành hai dòng phim riêng biệt, phim do tư nhân sản xuất và phim do nhà nước quản lý. Khi các hãng phim quốc doanh bước vào quá trình cổ phần hóa, dẫn đến nhiều tranh cãi và hệ lụy, cơ chế làm phim dưới sự bao cấp của nhà nước chính thức chấm dứt.
Chịu ảnh hưởng của cơ chế làm phim bao cấp quá lâu, nhiều đạo diễn bỡ ngỡ khi bước vào cơ chế thị trường. Trước đây, các đạo diễn quen làm phim theo tiêu chuẩn, quy chuẩn về thẩm mỹ, nghệ thuật, họ đưa vào thị trường điện ảnh những gì họ có. Nhiều phim không bán được vé (đang chiếu). Các đạo diễn chia sẻ, khán giả chạy theo sở thích giải trí, hài, chỉ thích đến rạp cho vui rồi về nên chưa đủ cơ sở để thẩm định tác phẩm nghệ thuật.
Thị trường điện ảnh ngày càng khắc nghiệt, điện ảnh thế giới phát triển như vũ bão, hơn bao giờ hết, đã đến lúc các nhà sản xuất phải thay đổi tư duy làm phim.
Sự bất công của khán giả
Khi những bộ phim bom tấn của Hollywood cháy vé tại thị trường điện ảnh Việt Nam, chúng ta có thể thấy khán giả Việt Nam cập nhật xu hướng thế giới nhanh đến mức nào. Thị trường phát hành phim tại Việt Nam trở nên sôi động và đầy tiềm năng cùng với điện ảnh thế giới.
Có thể kể đến hai ví dụ gần đây nhất là phim Thái Lan Ngược dòng thời gian để yêu anh thu 50 tỷ đồng sau 13 ngày ra rạp Việt hay phim hài Hàn Quốc “Bỗng dưng trúng số” đang làm mưa làm gió. trên khắp các phòng vé. Riêng ngày 25/9, phim “Bỗng dưng trúng số” thu về 14 tỷ đồng.
Điều này phủ nhận giả thuyết được đưa ra trước đó khi phim Việt ế ẩm, thua lỗ. Các nhà sản xuất phim Việt cho rằng khán giả vẫn ngại ra rạp sau đại dịch COVID-19, khán giả đã thay đổi thói quen xem phim sau thời gian xa cách, giờ đây các nền tảng xem phim trực tuyến như Netflix đã lên ngôi. khán giả không còn mặn mà đến rạp… Những lý thuyết này đã phá sản, khi khán giả đổ xô đến rạp xem phim Thái Lan, Hàn Quốc.
Cũng giống như “oan gia” chưa được bao lâu, khán giả Việt bị chỉ trích vì thị hiếu tầm thường, chỉ thích phim hài, ra rạp cười rồi về, không được xem phim đậm chất nghệ thuật. Mới đây nhất, đoàn phim “578: Shot of the Madman” vẫn thấy phim của họ rất hay và đẹp mắt nhưng khán giả lại tỏ thái độ “hội chứng đám đông” chê bai nhau khiến nhà sản xuất “578” ấm ức.
Khán giả Việt từng hứng chịu nhiều “tai tiếng” khi phim nội ế ẩm, thua lỗ. Không nhà sản xuất nào thừa nhận phim của họ kém vì chất lượng kém.
“Phim phải là hàng hóa”
Điện ảnh là một trong 12 ngành kinh tế mũi nhọn của Chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch triển khai đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Ngành sản xuất và phát hành phim đã mang lại doanh thu lớn cho GDP của nhiều quốc gia như Mỹ và Hàn Quốc. Để công nghiệp hóa, phim Việt Nam cần trở thành một loại hàng hóa đặc biệt. Ngô Phương Lan – Nguyên Cục trưởng Cục Điện ảnh – “Các nhà làm phim Việt Nam không thể cứ bán những gì mình có, đã đến lúc phải bán những gì khán giả cần”.
Khán giả ngày càng tiếp cận với nền điện ảnh thế giới khi công nghệ phát triển như vũ bão. Đã ở vào thời đại, các nhà làm phim không thể chê bai thị hiếu hay trình độ của khán giả. Bây giờ, nếu bạn làm những bộ phim dưới mức độ thưởng thức của khán giả, bạn sẽ không thể bán được vé.