Mô hình HTX được triển khai thí điểm vụ Hè Thu 2011 tại Đồng bằng sông Cửu Long và tỉnh Tây Ninh với diện tích hơn 7.800ha. Những năm sau đó, diện tích sản xuất áp dụng mô hình này tăng mạnh, đến năm 2014 ở ĐBSCL là 146.000 ha, năm 2015 tăng lên gần 200.000 ha.
Theo tính toán, mỗi ha lúa tham gia tổ chức công đoàn có thể giảm 10-15% chi phí sản xuất, tăng 20-25% sản lượng, lãi thêm 2,2-7,5 triệu đồng. Tham gia vào tổ chức công đoàn, người sản xuất được ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm ổn định, hỗ trợ kỹ thuật, giảm thiểu rủi ro. Doanh nghiệp chủ động được nguồn nguyên liệu, thuận lợi trong việc ứng dụng khoa học công nghệ, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng sức cạnh tranh v.v.
Tuy nhiên, sau khi đạt 200 nghìn ha vào năm 2015, mô hình HTX ở ĐBSCL những năm gần đây chỉ còn khoảng 140-160 nghìn ha. Diện tích HTX chỉ chiếm khoảng 9-10% tổng diện tích trồng lúa trong vùng, nghĩa là tỷ lệ lúa bao tiêu qua hợp đồng liên kết còn rất thấp, phần lớn nông dân vẫn phải bán lúa qua thương lái.
Tại sao?
Khi tham gia liên kết, nông dân (cụ thể ở đây là nông dân và doanh nghiệp) khó “sửa” thỏa thuận giá cả, còn nhà nước chỉ đóng vai trò trung gian, vận động hành lang là chính chứ không thể can thiệp. Theo ông Phạm Văn Hậu (huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang), nông dân muốn liên kết với doanh nghiệp thì phải sòng phẳng về tiền bạc, còn doanh nghiệp bao chi nhưng chậm trả, hoặc có trường hợp doanh nghiệp này. đứng ra thanh toán. nhưng lại giao cho doanh nghiệp khác mua gạo với giá thấp hơn giá thị trường. Vậy là “cuộc cá cược” đã bị hủy bỏ, đường ai nấy đi …
Ông Dương Văn Chín (Tập đoàn Lộc Trời) cho biết, quan điểm của mô hình công đoàn ban đầu là rất tốt và kỳ vọng sẽ tạo ra khối lượng lớn hàng hóa có chất lượng để chiếm lĩnh thị trường. “Tuy nhiên, mô hình này khi ra mắt đã hét giá rầm rộ nhưng thiếu kế hoạch rõ ràng. Nội dung thực hiện như thế nào, ai thực hiện, tiền ở đâu và thực hiện trong bao nhiêu năm… đều không được nêu cụ thể… ”, ông Chín nói.
Trong khi đó, các doanh nghiệp muốn liên kết làm ăn lớn nhưng lại khó khăn về vốn. Theo ông Phạm Thái Bình (Công ty CP Nông nghiệp công nghệ cao Trung An), mô hình cánh đồng liên kết là cần thiết và hiệu quả nhưng không mở rộng được diện tích, nguyên nhân nằm ở việc doanh nghiệp xuất khẩu gạo thiếu vốn. để thực thi mô hình. Khi không liên kết được thì việc các doanh nghiệp tranh mua, tranh bán để xoay vòng vốn là điều đương nhiên.
Ông Huỳnh Tất Đạt – Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Đồng Tháp cho biết, mặc dù tỉnh đã có nhiều giải pháp mời gọi, giới thiệu các doanh nghiệp uy tín vào làm ăn với nông dân nhưng tình trạng liên kết tiêu thụ lúa gạo giữa nông dân với doanh nghiệp vẫn còn. khó khăn. Nguyên nhân là do giữa các công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã, nông dân chưa thống nhất được phương án mua bán (giống, phương thức hợp tác, giá cả …).
Nông dân vẫn có tập quán bán qua thương lái (trả tiền tại ruộng), chưa quen với hình thức liên kết với doanh nghiệp. Mặt khác, diện tích đất nông nghiệp một số nơi còn manh mún, sản xuất nhiều giống trên một xã, sản lượng không đồng nhất nên khó liên kết tiêu thụ.
Thiếu ngôn ngữ chung
Đại diện một doanh nghiệp chuyên kinh doanh lúa gạo cho biết, giữa doanh nghiệp và nông dân vẫn chưa tìm được tiếng nói chung. Vẫn còn tình trạng khi giá lúa xuống thấp, doanh nghiệp cố tình kéo dài thời gian thu mua để ép giá nông dân, ngược lại khi giá lúa cao nông dân “bẻ kèo” bán ra bên ngoài. Sự không tin tưởng lẫn nhau của các bên đã ngăn cản mô hình này phát triển mạnh.
“Chính tư duy ‘làm ăn, thời vụ’ của những người trong cuộc đã khiến mối liên kết này thiếu bền vững, dẫn đến khả năng phát huy mô hình TTHTCĐ kém. Cụ thể, khi vụ đông xuân là vụ lúa có chất lượng gạo ngon nhất trong năm, doanh nghiệp tranh thủ ký hợp đồng với nông dân, nhưng khi bước vào vụ hè thu (lúa kém chất lượng) thì doanh nghiệp “bỏ trốn”. “…” – một nguyên lãnh đạo tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long nói.
Việc xây dựng các mô hình liên kết sản xuất – tiêu thụ lúa gạo ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long còn nhiều hạn chế, thiếu ổn định, thậm chí có xu hướng giảm dần. Người nông dân và doanh nghiệp chưa tìm được tiếng nói chung để chia sẻ lợi ích và rủi ro trong sản xuất kinh doanh. Tình trạng phá vỡ hợp đồng, tranh chấp trong mua bán giữa người sản xuất và người tiêu dùng vẫn chưa chấm dứt. Nhiều nơi, nông dân chủ yếu sản xuất và bán cho thương lái, chịu nhiều thua lỗ và rủi ro.
Theo GS Võ Tòng Xuân, nguyên nhân quan trọng nhất khiến mô hình TTHTCĐ không phát triển là do ban tổ chức (tức doanh nghiệp) thiếu đầu ra. Doanh nghiệp không chỉ khó tiếp cận vốn mà dù có vốn nhưng không tìm được đầu ra thì cuối cùng vẫn thất bại. “Phải bán được thì ngân hàng mới cho vay tiếp, nếu không thì ai dám cho vay nữa. Mô hình HTX muốn thành công phải xuất phát từ thị trường, nghĩa là doanh nghiệp phải biết khách hàng cần loại gạo gì, tiêu chuẩn ra sao…, khi đã có đầu ra, doanh nghiệp sẽ chuyển sang hợp đồng sản xuất với nông dân. với diện tích và tiêu chuẩn phù hợp ”- ông Xuân phân tích.
Theo Cục Trồng trọt, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, diện tích trang trại tập thể giảm do quá trình liên kết sản xuất lúa vẫn còn những khó khăn, vướng mắc. Cụ thể: Do sản xuất lúa tập trung, nông dân bán lúa tươi nên doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc chuẩn bị phương tiện vận chuyển, không đủ thiết bị sấy và bảo quản, lúa thu hoạch thường phải tập trung. phải mất khoảng 4-5 ngày để thu thập tất cả chúng; Một số diện tích lúa đã quá ngày thu hoạch 7-10 ngày mới cắt làm ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng.
Về hợp đồng, tuy hai bên có hợp đồng thu mua nhưng vẫn có trường hợp doanh nghiệp thu mua không kịp, nông dân bán cho thương lái bên ngoài, giá cả biến động ngoài thị trường ảnh hưởng đến việc thu mua. Trong khi đó, vẫn còn thiếu khung pháp lý phù hợp để giải quyết tranh chấp trong liên kết giữa các nhà, đặc biệt là hợp đồng giữa doanh nghiệp và nông dân.