Thúc đẩy chuyển đổi số trở thành động lực phát triển bền vững ngành khai khoáng

Rate this post

(TN&MT) – Chiều 4/10, tại Hà Nội, Trường Đại học Mỏ – Địa chất phối hợp với Informa Market Group tổ chức Hội thảo “Chuyển đổi số trong ngành khai khoáng: Từ lý thuyết đến ứng dụng thực tế”. Hội thảo diễn ra trong khuôn khổ Triển lãm Quốc tế lần thứ 5 về Công nghiệp khai thác, phục hồi tài nguyên khoáng sản và xây dựng tại Việt Nam.

img_9649 (1) .jpg
PGS.TS Bùi Xuân Nam, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Mỏ – Địa chất phát biểu khai mạc

PGS.TS Bùi Xuân Nam, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Mỏ – Địa chất cho biết, công nghiệp khai khoáng, trong đó có khai thác và chế biến khoáng sản là một ngành quan trọng, sản xuất nguyên liệu cho các ngành khác. vai trò đối với sự phát triển kinh tế – xã hội, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển như Việt Nam. Sự phát triển của ngành công nghiệp khai khoáng là tất yếu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo mục tiêu mà Đảng và Chính phủ Việt Nam đã đề ra trong những năm tới.

Trong bối cảnh đó, sự phát triển của ngành công nghiệp khai khoáng không thể tách rời với sự phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, trong đó chuyển đổi số là một khâu quan trọng, quyết định sự thành công của các cuộc cách mạng trên thế giới. . Vì vậy, Hội thảo lần này nhằm thảo luận về những thuận lợi và thách thức của Ngành Khai khoáng khi bước vào quá trình chuyển giao luận cứ; đồng thời chia sẻ kiến ​​thức, kinh nghiệm để suy nghĩ và hành động quyết định đổi mới sáng tạo nhằm thúc đẩy chuyển đổi số trở thành động lực phát triển, góp phần phát triển nhanh và bền vững ngành công nghiệp khai khoáng Việt Nam.

Nói về việc đẩy mạnh ứng dụng mô phỏng số để dự báo tai biến địa kỹ thuật trong khai thác hầm lò ở Việt Nam, TS Lê Tiến Dũng, Trường Đại học Mỏ – Địa chất cho rằng, việc dự báo bằng phương pháp thực nghiệm, lý thuyết, mô phỏng số … chỉ giới hạn ở một số đối tượng cụ thể. các điều kiện. Mô phỏng số chủ yếu được áp dụng trong học thuật hơn là trong sản xuất thực tế, chẳng hạn như nghiên cứu sụt lở gương than, sụt lún bề mặt địa hình và bục nước.

Theo ông, nguyên nhân là do quá trình thiết kế chưa buộc phải tính đến các biểu hiện địa kỹ thuật và các yếu tố địa kỹ thuật bất định luôn xuất hiện trong môi trường đất đá; Điều kiện địa chất của mỏ phức tạp nên các giải pháp thiết kế cục bộ đã xác định được cho là linh hoạt và phù hợp với điều kiện khai thác hiện nay; Chi phí thuê và mua dịch vụ thiết kế, phần mềm thiết kế còn cao, thiếu đồng bộ, thiếu nhân lực vận hành.

TS Lê Tiến Dũng đề xuất giải pháp thúc đẩy ứng dụng mô phỏng số để dự báo tai biến địa kỹ thuật trong khai thác hầm lò ở Việt Nam như: Tư vấn cho các nhà hoạch định chính sách khoáng sản Việt Nam một quy trình thiết kế địa kỹ thuật chặt chẽ; trao đổi, đào tạo các phương pháp tiếp cận thiết kế mô phỏng hiện đại cho các đơn vị hoạt động khoáng sản; thiết kế các mỏ lớn, hiện đại theo hướng ứng dụng mô phỏng số hiện đại; giảm chi phí thuê dịch vụ thiết kế, phần mềm và đào tạo nguồn nhân lực …

img_9656.jpg
Cảnh hội thảo

Bàn về vấn đề số hóa và những tiến bộ trong quy hoạch khai thác, ông Shane Dolmaschenz, Giám đốc Công ty Deswil, Australia cho rằng, việc lập và thực hiện kế hoạch quản lý chất thải mỏ góp phần giúp các doanh nghiệp khai thác. Việc khai thác có thể đạt được các mục tiêu: không tác động xấu đến nước, đất, không khí, hệ sinh thái động thực vật, không gây tiếng ồn và mùi hôi; không ảnh hưởng đến hình thái cảnh quan khu vực và đặc biệt không gây hại đến sức khỏe của người lao động và cộng đồng dân cư xung quanh; đảm bảo tuân thủ đầy đủ các biện pháp kỹ thuật và quản lý cần thiết theo quy định của pháp luật. Nội dung của kế hoạch quản lý chất thải mỏ có thể thay đổi theo quy định và pháp luật hiện hành.

Vì vậy, các nhà quản lý môi trường tại các doanh nghiệp khai thác khoáng sản cần liên tục cập nhật và hoàn thiện kế hoạch quản lý chất thải của mình. Số hóa dữ liệu mỏ là điều kiện tiên quyết trong sự phát triển bền vững của ngành công nghiệp khai thác. Trong đó, số hóa dữ liệu mỏ là sử dụng kỹ thuật số để lưu trữ dữ liệu mỏ bằng cơ sở dữ liệu 3 chiều; xây dựng quy trình làm việc để người phê duyệt đưa dữ liệu được sử dụng vào cơ sở dữ liệu; Tùy chọn điện thoại và máy tính bảng dựa trên Internet.

Tại Hội thảo, các đại biểu cũng đã thảo luận một số nội dung về nghiên cứu ảnh hưởng của bãi thải bề mặt mỏ đến ứng xử cơ học của các tuyến lò hầm lò vùng than Quảng Ninh bằng mô hình số; tối ưu hóa các lựa chọn bằng mô phỏng máy tính; Mô phỏng hệ thống đứt gãy trong khối đá khai thác lộ thiên ở Việt Nam.

Thanh Thuy

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *