Tự lực, tự cường, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia

Rate this post

Đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia: Xây dựng nền tảng vững chắc Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả để đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia

Không chỉ gắn với từng giai đoạn lịch sử, quá trình giải phóng dân tộc trước đây, thời kỳ xây dựng đất nước hiện nay, đặc biệt là trong hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, ngành năng lượng từng bước tự chủ. tự lực, tự cường, đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế – xã hội.

Để làm rõ hơn nội dung này, phóng viên Báo Công Thương đã có cuộc trao đổi với Anh hùng Lao động, TS Thái Phụng Nê – Nguyên Bộ trưởng Bộ Năng lượng.

Tự lực, tự cường, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia
Anh hùng Lao động, TS Thái Phụng Nê – Nguyên Bộ trưởng Bộ Năng lượng

Thưa ông, với tư cách là Bộ trưởng Bộ Năng lượng giai đoạn 1992-1995, ông đánh giá như thế nào về những bước tiến của ngành năng lượng Việt Nam và đóng góp của ngành này đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước? ?

Bộ Năng lượng được thành lập ngày 01/01/1989 theo Quyết định số 1379NL / TCCB-LĐ ngày 05/12/1988 của Bộ Năng lượng (nay là Bộ Công Thương) trên cơ sở hợp nhất hai Viện: Viện Năng lượng. và Điện khí hóa với Viện Nghiên cứu Khoa học Kỹ thuật Điện.

Khi đó, Bộ Năng lượng quản lý hai ngành: điện và than; Khi đó, ngành dầu khí là Tổng cục Dầu khí trực thuộc Chính phủ. Sau này, khi Bộ Công nghiệp được thành lập, lĩnh vực dầu khí được chuyển về Bộ Công nghiệp.

Như chúng ta đã biết, ngành điện than của Việt Nam được hình thành từ rất sớm, năm 1894 Việt Nam có nhà máy điện đầu tiên là ngọn hải đăng Vườn hoa Hải Phòng, ngành than cũng có lịch sử khai phá. gần 180 năm. Sau khoảng 60 năm Pháp thuộc, 30 năm chiến tranh giành độc lập dân tộc (chống Pháp, chống Mỹ) và 19 năm sau ngày đất nước giải phóng, Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam.

Tôi liệt kê điều này để thấy rằng mặc dù ngành điện – than của Việt Nam được hình thành từ rất sớm nhưng để sự phát triển của ngành than và điện có kết quả rõ rệt thì phải kể đến thời kỳ đất nước mới giải phóng, đặc biệt là sau khi Mỹ dỡ bỏ cấm vận với Việt Nam.

Theo Nghị quyết của Ban Bí thư Trung ương, điều quan trọng là muốn phát triển năng lượng, điện lực phải đi trước một bước. Với tinh thần như vậy, cần tăng công suất khai thác than để cung cấp cho sản xuất điện, các ngành công nghiệp khác và xuất khẩu để thu ngoại tệ.

Trước đây, quy mô ngành than rất nhỏ, nhưng đầu những năm 90 của thế kỷ XX, khai thác và chế biến than bắt đầu khởi sắc với sản lượng gần 10 triệu tấn / năm và đến nay đã đạt khoảng 40 triệu tấn. /năm.

Còn ngành điện, dù có bề dày lịch sử gần 126 năm nhưng thời Pháp thuộc và chiến tranh, chúng ta hầu như không có gì. Năm 1954, công suất nhiệt điện ở miền Bắc khoảng 32,5 MW. Sau năm 1954 ở miền Bắc có thêm nhiều nhà máy điện như Thủy điện Thác Bà (1964), Nhiệt điện Uông Bí (1961) với sự giúp đỡ của Liên Xô (Nga). Đây là bước phát triển mạnh mẽ của miền Bắc trước khi Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc. Sau năm 1975, Liên Xô tiếp tục giúp Việt Nam xây dựng Nhà máy Thủy điện Hòa Bình công suất 1.920 MW (năm 1979), Nhà máy nhiệt điện Phả Lại 440 MW (năm 1980).

Từ nền tảng đó, 15 năm qua, chúng ta đã có bước phát triển mạnh mẽ với hàng loạt công trình điện lớn như: Thủy điện Sơn La, Lai Châu và nhiều nhà máy thủy điện nhỏ; hình thành các trung tâm điện lực như Quảng Ninh, Vĩnh Tân, Duyên Hải … Đặc biệt, chúng tôi tự chủ từ khâu khảo sát, thiết kế, tư vấn, xây dựng, lắp đặt và quản lý vận hành. Chúng tôi cũng đã sang Lào để xây dựng các nhà máy thủy điện để đưa điện về Việt Nam. Cùng với đó là hệ thống đường truyền quy mô lớn, rộng khắp, mang tính khu vực.

Đến nay, hệ thống điện ngày càng phát triển, đảm bảo cung cấp điện cho phát triển kinh tế đất nước. Hơn 99,25% hộ dân trên cả nước có điện, tỷ lệ này cao hơn nhiều nước trong khu vực. Điều đó cho thấy ngành năng lượng trong đó có điện đã phát triển nhanh chóng và có nhiều đóng góp to lớn vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Vậy những dấu mốc phát triển của ngành điện là gì? Và bài học kinh nghiệm từ những kết quả đó, thưa ông?

Lịch sử ngành Điện đầy tự hào, trong đó nổi bật lên hai điểm sáng là Nhà máy Thủy điện Hòa Bình năm 1979 và Đường dây 500 kV Bắc Nam mạch 1 năm 1992.

Có thể khẳng định, khi có Thủy điện Hòa Bình, chất lượng điện của miền Bắc tốt hơn rất nhiều. Điện được đưa về nông thôn, phục vụ đắc lực cho sản xuất nông nghiệp, thực hiện thành công công tác chống lũ cho hệ thống sông Hồng, không còn tình trạng ngập úng; điều tiết nước phục vụ sản xuất nông nghiệp và phát triển dân sinh.

Tự lực, tự cường, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia
Đến nay, hệ thống điện đã phát triển

Từ năm 1992, Nhà máy Thủy điện Hòa Bình đã phát điện dư thừa, miền Bắc sử dụng không hết trong khi miền Nam thiếu điện. Khi đó, Bộ Năng lượng đã đề xuất xây dựng đường dây 500 kV Bắc Nam để giải quyết tình trạng thiếu điện cho miền Nam.

Dư luận đang rất trái chiều, xây một công trình dài 1.487 km xuyên rừng núi nhưng lại tuyên bố hoàn thành trong 2 năm, điều mà chưa nước nào trên thế giới làm được chứ chưa nói đến Việt Nam trùng tu. Sau chiến tranh, nó vẫn bị Mỹ cấm vận.

Khi đó, Thủ tướng Võ Văn Kiệt nói: Kỹ thuật là trách nhiệm của Bộ Năng lượng, việc quyết định xây dựng đường dây 500 kV là của Thủ tướng Chính phủ. Tôi quyết định rằng nếu tôi thất bại hoặc không thành công, tôi sẽ từ chức trước và không để bất cứ ai loại bỏ tôi.

Vượt qua nhiều thách thức, khó khăn, cùng sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, sự vào cuộc của ngành năng lượng, sau 2 năm hoàn thành đã tạo nên xương sống của hệ thống điện Việt Nam, giải bài toán phát điện. tình trạng thiếu điện ở miền Trung và miền Nam, phục vụ đắc lực cho phát triển kinh tế đất nước. Và bây giờ chúng ta có mạch 2 và mạch 3.

Rồi sau này, với Thủy điện Sơn La, Lai Châu, rồi trên cương vị đặc phái viên của Thủ tướng Chính phủ, Phó Trưởng Ban Chỉ đạo Nhà nước về Thủy điện Sơn La – Lai Châu, sau khi các đơn vị báo cáo đảm bảo kỹ thuật, đảm bảo chất lượng, nhiều vấn đề đã được do tôi quyết định tại chỗ. Nhờ đó, Thủy điện Sơn La về đích sớm 3 năm, Thủy điện Lai Châu 1 năm.

Theo tôi, để đạt được kết quả trên, bài học kinh nghiệm ở đây là tầm nhìn chiến lược, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm của người đứng đầu và sự quyết liệt, quyết liệt vì lợi ích chung của người đứng đầu. đất nước, quốc gia.

Theo ông, trong bối cảnh thế giới có nhiều thay đổi, Việt Nam cần làm gì để duy trì và phát triển ngành năng lượng nói chung và ngành điện bền vững, tự chủ?

Hiện nay, cuộc khủng hoảng năng lượng đã và đang diễn ra, ảnh hưởng đến Việt Nam, vì vậy cần phát triển hơn nữa hệ thống năng lượng, đặc biệt là điện năng để phục vụ phát triển kinh tế – xã hội bền vững của đất nước. phù hợp với các mục tiêu tại COP26.

Theo tôi, trước hết cần sớm phê duyệt các quy hoạch năng lượng, trong đó có Quy hoạch điện VIII để làm cơ sở triển khai sớm, nhất là các quy hoạch đến năm 2025. Tập trung tháo gỡ khó khăn về thủ tục hành chính; ứng dụng khoa học – công nghệ, phát triển năng lượng tái tạo, gắn với hệ thống truyền tải, gắn với hệ thống lưu trữ; nghiên cứu mở rộng thủy điện lớn hiện có, phát triển thêm thủy điện tích trữ; khai thác hiệu quả các nguồn tài nguyên để đáp ứng nhu cầu điện trước mắt do nguồn điện không còn dự trữ. Triển khai đồng thời các giải pháp kỹ thuật khác.

Xin chân thành cảm ơn!

Thanh Thuy

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *