Ung thư vú không còn là ‘án tử’

Rate this post

Chú thích ảnh
Phụ nữ cần đi khám sức khỏe định kỳ và tầm soát ung thư vú sớm. Ảnh: TTXVN

Nó có thể chữa được nếu phát hiện sớm

Phát hiện mắc bệnh ung thư vú vào năm 2013, chị Vũ Tuyết Mai (Hà Nội) tưởng như “án tử” đang treo trên đầu mình. Lúc đó, chị như suy sụp vì nghĩ rằng căn bệnh ung thư không thể chữa khỏi.

Chị Tuyết Mai chia sẻ: “Rất may là khi mới phát hiện khối u còn rất nhỏ, tôi không thấy đau hay có triệu chứng gì khác. Mấy năm đầu đi khám định kỳ chỉ có khối u âm vang, tôi vẫn khỏe. Đến tháng 5/2021, khi khối u có biểu hiện bất thường, vỡ ra có lẫn máu, mủ; thậm chí bị hoại tử, không chảy máu, sức khỏe lúc đó rất kém, tôi suy sụp. Khi nhập viện tại Bệnh viện Bạch Mai, bác sĩ đánh giá trường hợp của tôi không thể mổ ngay mà phải truyền hóa chất trước ”.

Sau khi truyền hóa chất 6 lần, kết quả rất tốt, nhưng phát hiện khối u đã xâm nhập vào các bộ phận khác; Mai được chỉ định thêm 2 đợt hóa trị.

“Sau khi kết quả ổn định, tôi được hẹn phẫu thuật vào tháng 1 năm 2022. Từ khi phẫu thuật đến nay, tôi chỉ điều trị ngoại trú, sức khỏe ổn định; Kết quả điều trị hơn tôi mong đợi. Tôi được biết các bác sĩ đã sử dụng tất cả các phương pháp điều trị ung thư vú hiện đại trên thế giới để điều trị cho tôi, cho kết quả tốt ”, chị Mai chia sẻ.

Cũng phát hiện bị ung thư vú ở giai đoạn đầu, chị D.TC (ở Hải Dương) đã vượt qua căn bệnh quái ác sau một thời gian điều trị. Chị đến Bệnh viện K khám và phát hiện bị ung thư vú, chị được chỉ định phẫu thuật cắt toàn bộ tuyến vú trái bóc tách hạch nách trái, xạ trị thành ngực bổ trợ sau phẫu thuật. Sau khi điều trị, cô đã khỏi bệnh và trở lại sinh hoạt bình thường, sống khỏe mạnh trong nhiều năm.

Theo thống kê của Tổ chức Ung thư toàn cầu (GLOBOCAN), chỉ tính riêng năm 2020, nước ta có gần 183.000 ca ung thư mới, trong đó ung thư vú có gần 22.000 ca (chiếm 11,8%).

Cũng trong năm 2020, Việt Nam ghi nhận gần 10.000 ca tử vong vì căn bệnh này. Những con số này cho thấy ung thư vú là bệnh ung thư phổ biến nhất ở phụ nữ.

Hiện nay, với sự tiến bộ của các phương pháp chẩn đoán như: Siêu âm kết hợp chọc hút tế bào, chụp nhũ ảnh, MRI vú, giải phẫu bệnh, hóa mô miễn dịch, PET / CT … phù hợp với các phương pháp điều trị như phẫu thuật, hóa trị, xạ trị, điều trị nội tiết, thuốc nhắm trúng đích, liệu pháp miễn dịch… có thể kéo dài thời gian sống thêm và nâng cao chất lượng sống cho người bệnh.

Nâng cao chất lượng điều trị

PGS. PGS.TS Phạm Cẩm Phương, Giám đốc Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai chia sẻ: “Về điều trị cho bệnh nhân ung thư vú, Bệnh viện Bạch Mai hiện đã thành lập đội ngũ chuyên gia gồm: bác sĩ thuộc nhiều chuyên khoa khác nhau. như chuyên khoa ung bướu, y học hạt nhân, chuyên khoa thẩm mỹ, chuyên khoa bệnh lý… để phối hợp, chẩn đoán và điều trị cho bệnh nhân một cách tối ưu nhất. Đối với mỗi bệnh nhân được chẩn đoán ung thư vú, giai đoạn nào được đánh giá, lựa chọn phương pháp điều trị phù hợp, chẳng hạn như: Bệnh nhân được điều trị ngay hoặc điều trị bằng hóa chất trước, nội tiết trước rồi mới phẫu thuật. Mỹ thuật. Trong quá trình phẫu thuật, bệnh nhân cũng được xem xét có nên cắt bỏ toàn bộ tuyến vú bằng phương pháp bóc tách hạch nách, hoặc bệnh nhân được phẫu thuật mở rộng để cứu vú… Tùy vào tình trạng của bệnh nhân mà các bác sĩ và nhân viên bác sĩ sẽ đưa ra với phương án tốt nhất để điều trị. ”

“Trong điều trị nội khoa, chúng tôi sử dụng các loại thuốc để điều trị như: hóa trị, nội tiết cả thế hệ mới và thế hệ cũ, cũng như thuốc điều trị trúng đích, liệu pháp miễn dịch ung thư vú. Ở Việt Nam hiện nay đã có thể cập nhật tiến bộ, phác đồ điều trị của các nước trên thế giới và trong khu vực để điều trị cho bệnh nhân một cách tối ưu nhất ”, PGS. PGS.TS Phạm Cẩm Phương.

Theo TS.BS Phùng Thị Huyền, Trưởng khoa Nội, Bệnh viện K, bệnh nhân khi được chẩn đoán mắc ung thư vú thường quan tâm đến tiên lượng của bệnh, sống được bao lâu? Có nhiều yếu tố quyết định tiên lượng của bệnh nhân; kể cả giai đoạn bệnh, nếu người bệnh đi khám ở giai đoạn sớm thì cơ hội chữa khỏi cao hơn rất nhiều.

Việc điều trị sớm ngoài khả năng khỏi bệnh thì các phương pháp điều trị bệnh phải sử dụng cũng ở mức tối thiểu, việc điều trị ít ảnh hưởng đến sức khỏe, tiết kiệm chi phí điều trị hơn cho người bệnh. Ung thư vú được chia thành 4 giai đoạn, điều này có ý nghĩa tiên lượng; Giai đoạn bệnh rất quan trọng để làm cơ sở đưa ra phương pháp điều trị phù hợp. Ở giai đoạn đầu, bệnh nhân có thể được phẫu thuật, sau đó điều trị bổ trợ; Nếu ở giai đoạn muộn hơn thì trước tiên sẽ phải điều trị bằng phương pháp hóa trị để thu nhỏ khối u, sau đó mới phẫu thuật. Nếu ở giai đoạn muộn, các phương pháp điều trị toàn thân sẽ được áp dụng…

Theo đó, yếu tố quan trọng nhất là người bệnh được phát hiện sớm, đến bệnh viện sớm mới có thể quyết định được hiệu quả điều trị ung thư vú. Vì vậy, chị em cần chủ động trong việc tầm soát và thăm khám định kỳ để phát hiện bệnh sớm nhất.

Cũng theo PGS.TS. PGS.TS Phạm Cẩm Phương, đối với bệnh nhân ung thư vú giai đoạn muộn cần áp dụng các phương pháp điều trị tiên tiến hoặc thuốc thế hệ mới; trong khi bảo hiểm y tế hiện chưa chi trả thuốc mới cho bệnh nhân giai đoạn muộn. Trong thời gian tới, nếu BHYT chi trả một phần các loại thuốc mới này có thể giúp giảm gánh nặng cho bệnh nhân ung thư vú giai đoạn cuối khi các loại thuốc thế hệ mới được kê đơn để tăng hiệu quả điều trị cho người bệnh.

Thanh Thuy

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *