Vì sao giáo dục đại học Việt Nam khó “đầu ra”?

Rate this post

Giáo dục đại học không đạt được nhiều thành công

Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam đã đạt được những kết quả tốt trong việc cung cấp chất lượng giáo dục phổ thông cho người dân, nhưng chưa đạt được nhiều kết quả ở giáo dục sau trung học cơ sở.

Số năm đi học trung bình của Việt Nam là 10,2 năm, chỉ đứng sau Singapore trong ASEAN và chỉ số vốn con người là 0,69 / 1, cao nhất trong các nền kinh tế có thu nhập trung bình thấp.

Tuy nhiên, tỷ lệ nhập học sau trung học của Việt Nam năm 2019 chỉ là 28,6%. Đây là mức thấp hơn so với các nước trong khu vực và so với tỷ lệ nhập học trung bình là 55,1% ở các nước có thu nhập trung bình trên.

Điều này cho thấy, trong số khoảng 6,9 triệu trẻ em trong độ tuổi đi học theo học các chương trình sau trung học, chỉ có khoảng 2 triệu trẻ em đang theo học. Để đạt được tỷ lệ nhập học tương đương với các nước có thu nhập trung bình cao khác trong dài hạn, Việt Nam cần tạo điều kiện tuyển sinh khoảng 3,8 triệu sinh viên, gần gấp đôi so với năm 2019.

Vì sao giáo dục đại học Việt Nam khó đầu ra?  - Đầu tiên
Thí sinh dự thi tốt nghiệp THPT năm 2022 (Ảnh: Mạnh Quân).

Theo các chuyên gia của Ngân hàng Thế giới, sự khác biệt về kết quả đạt được của Việt Nam so với các nước cũng như mục tiêu đề ra một phần là do sự chênh lệch về cơ hội tiếp cận giáo dục đại học.

Tính đến năm 2020, chỉ có 7,3% học sinh thuộc hộ gia đình thu nhập thấp được tiếp cận với giáo dục đại học, so với 49,8% học sinh thuộc hộ gia đình thu nhập cao. tốt nhất. Thanh niên dân tộc thiểu số có tỷ lệ tiếp cận giáo dục đại học là 6%, thấp hơn nhiều so với tỷ lệ 35,4% của nhóm dân tộc đa số.

Tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông và tỷ lệ trúng tuyển không đồng đều cũng ảnh hưởng đến tỷ lệ tiếp cận giáo dục đại học.

Các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả giáo dục đại học ở Việt Nam

Theo nghiên cứu của các chuyên gia Ngân hàng Thế giới, nhìn vào góc cầucác yếu tố cản trở mong muốn theo đuổi giáo dục đại học bao gồm chi phí cơ hội của việc học, lợi nhuận thu được từ giáo dục giảm dần và gánh nặng chi phí tài chính gia tăng đối với các hộ gia đình.

Đặc biệt, vào đại học đồng nghĩa với việc trì hoãn việc tham gia các hoạt động tạo thu nhập trong một số năm, và đó là chi phí cơ hội rất lớn cho sinh viên.

Ngoài ra, mặc dù thu nhập của sinh viên mới ra trường 25-35 tuổi cao gấp 3 lần so với lao động không có bằng cấp nhưng chỉ số tỷ lệ lợi nhuận Mối tương quan tính trên tiền lương của lao động có trình độ chuyên môn và tay nghề cao đã giảm dần trong giai đoạn 2010-2020.

Tỷ suất sinh lợi được đo lường bằng sự thay đổi tiền lương theo giờ của nhóm lao động có trình độ sau trung học so với nhóm có trình độ thấp hơn tiểu học. Con số này giảm từ 70% năm 2010 xuống còn 50% năm 2020.

Các chuyên gia của Ngân hàng Thế giới cho rằng điều này một phần là do sự phù hợp về kỹ năng của sinh viên tốt nghiệp đại học trên thị trường lao động còn thấp.

Hiện tại, Việt Nam đứng thứ 3 từ dưới lên trong số 140 quốc gia được đánh giá trong Chỉ số năng lực cạnh tranh năm 2018 về mức độ phù hợp kỹ năng của sinh viên tốt nghiệp. Nguyên nhân có thể là do nền kinh tế chưa tạo ra đủ việc làm cần kỹ năng cao nên một số sinh viên giỏi, kỹ năng cao phải nhận những công việc có kỹ năng thấp hơn, lương thấp hơn.

Ngoài ra, học phí và chi phí học đại học tổng thể đã tăng hơn gấp đôi trong những năm gần đây, trong khi các khoản đóng góp của hộ gia đình để đi học đại học hiện là nguồn học phí chính. của những học sinh. Học phí hộ gia đình phải đóng bình quân chiếm trên 65% nguồn thu của các cơ sở giáo dục đại học và chiếm 43-60% tổng chi của sinh viên.

Vì sao giáo dục đại học Việt Nam khó đầu ra?  - 2
Các tân cử nhân Đại học Sư phạm Hà Nội trong lễ tốt nghiệp (Ảnh: Nguyễn Liên).

Nhìn nó từ một góc cánh cungcác yếu tố ảnh hưởng đến đầu ra và kết quả của giáo dục đại học bao gồm chênh lệch cung cầu về kỹ năng, thiếu vốn và cấu trúc thể chế phân tán.

Theo đó, tay nghề của nhiều sinh viên ra trường chưa phù hợp với nhu cầu thị trường. Các doanh nghiệp cho biết họ gặp khó khăn trong việc tìm kiếm lao động có trình độ lãnh đạo, quản lý (73%) hoặc chuyên môn kỹ thuật (68%).

Bên cạnh đó, Việt Nam chi tiêu cho giáo dục đại học thấp hơn các nước trong khu vực. Năm 2019, Việt Nam phân bổ 0,6% GDP cho giáo dục đại học, cao đẳng và dạy nghề. Con số này thấp hơn so với các nước khác như Malaysia (0,86%) hay Hàn Quốc (0,9%).

Ngoài ra, hiện nay chưa có cơ quan quản lý tập trung và thống nhất đối với toàn bộ hệ thống giáo dục đại học và nghiên cứu; khuôn khổ pháp lý còn phức tạp, phân tán và thiếu đồng bộ; mối liên kết giữa các trường đại học và cơ sở nghiên cứu còn yếu; Đảm bảo chất lượng cần được cải thiện.

4 giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục đại học Việt Nam

Theo các chuyên gia của Ngân hàng Thế giới, hệ thống giáo dục đại học của Việt Nam cần có những đổi mới mang tính hệ thống để nâng cao chất lượng trên một số phương diện.

Người đầu tiên, cải thiện khả năng tiếp cận và công bằng. Với giả định tỷ lệ nhập học sau trung học cơ sở của Việt Nam đến năm 2030 là 45%, thì chỉ tiêu tuyển sinh bổ sung ước tính là 1,3 triệu để đạt tổng số 3,8 triệu học sinh.

Để có thể mở rộng quy mô như vậy, nhu cầu đặt ra là phải đảm bảo rằng các cơ sở giáo dục tư nhân và ngoài trường đại học đóng một vai trò lớn hơn; mô hình đào tạo đa dạng hơn, bao gồm học trực tuyến và ứng dụng công nghệ số; tăng cường tuyển sinh ngay từ cấp THCS và hỗ trợ kinh phí cho học sinh.

Thứ hai, nâng cao chất lượng và sự phù hợp. Để nâng cao chất lượng, cần tập trung đổi mới phương pháp dạy và học, quản lý tốt đội ngũ giảng viên, nghiên cứu tài năng, đầu tư cơ sở hạ tầng giáo dục, công nghệ thông tin và truyền thông. Để nâng cao tính phù hợp của các chương trình giáo dục đại học, cần xây dựng mối liên kết chặt chẽ hơn giữa các cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp.

Thứ ba, đảm bảo tài chính cho lĩnh vực giáo dục đại học. Giáo dục đại học cần hướng tới sự bền vững về tài chính thông qua việc phân bổ tốt hơn các quỹ nhà nước và sử dụng hiệu quả hơn các quỹ của khu vực tư nhân. Ưu tiên trước mắt là đảm bảo rằng các nguồn lực hiện có được sử dụng một cách hiệu quả.

Dần dần, nguồn vốn của Nhà nước dành cho giáo dục sau trung học cơ sở cần được tăng lên, nhất là khi nhu cầu giáo dục đại học tiếp tục tăng. Tuy nhiên, do Nhà nước cung cấp khoảng 80% chương trình giáo dục sau trung học nên vai trò của các cơ sở tư thục sau trung học vẫn cần được nâng cao hơn nữa.

Thứ Tư, cải tiến quản trị trong lĩnh vực giáo dục đại học. Theo nhóm chuyên gia, Chính phủ cần xem xét sắp xếp lại cơ cấu quản lý ngành giáo dục đại học để tạo điều kiện phát triển và nâng cao chất lượng.

Phải xác định tầm nhìn và chiến lược cho giáo dục đại học, sửa đổi cơ cấu ngành và khung quy định, kết hợp với các biện pháp đảm bảo chất lượng để tạo điều kiện thuận lợi cho các trường đại học hoạt động theo hướng tự chủ. quyền sở hữu và trách nhiệm giải trình trong một cơ cấu quản trị hiệu quả hơn.

Ngoài ra, giao một Bộ chủ trì quản lý nhà nước đối với các trường đại học, trung học kỹ thuật và dạy nghề. Các nhà chức trách cần tích cực theo dõi tiến độ và kết quả của chương trình cải cách này thông qua một hệ thống quản lý thông tin hiện đại.

Thanh Thuy

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *