Không chỉ là trang phục truyền thống mang đậm giá trị văn hóa, lịch sử, tà áo dài còn góp phần không nhỏ trong việc giới thiệu, quảng bá hình ảnh văn hóa, du lịch Việt Nam đến bạn bè quốc tế. Đặc biệt, trong bối cảnh Hà Nội đang xây dựng công nghiệp văn hóa trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, đặt mục tiêu đóng góp 5% GRDP của thành phố vào năm 2025 và 10% GRDP vào năm 2045, thì vai trò của áo dài càng trở nên quan trọng.
Phóng viên Lao Động đã có cuộc trò chuyện với nhà thiết kế (NTK) Sĩ Hoàng – người từng có nhiều năm trăn trở và gắn bó với tà áo dài Việt Nam để hiểu thêm về tiềm năng và cơ hội của tà áo dài trên thế giới. phát triển công nghiệp văn hóa.
Là một trong những nhà thiết kế gắn bó với áo dài, chị nghĩ sao về khả năng quảng bá văn hóa, du lịch của tà áo dài Việt Nam đến bạn bè thế giới?
– Áo dài đã trở thành một trong những biểu tượng văn hóa của Việt Nam, là trang phục đi qua lịch sử với niềm tự hào dân tộc. Nhìn từ xưa đến nay, tà áo dài thể hiện tính cách của người phụ nữ Việt Nam: Đẹp kín đáo, ý nhị. Vẻ đẹp bên ngoài thể hiện sự dịu dàng và ý nghĩa bên trong.
Kiểu dáng áo dài dần thay đổi và mới mẻ, luôn vận động theo thời đại mà không hề bảo thủ. Thiết kế truyền thống mang tính quốc tế hóa, dung hòa xu hướng mặc thời đại với bản sắc văn hóa Việt Nam, hình thành nên xu hướng thời trang áo dài hội nhập quốc tế.
Người nước ngoài có thể biết đến, yêu thích và mặc áo dài như một loại trang phục thời trang. Thực tế, đã có trào lưu mặc áo dài ở Nhật Bản và Hàn Quốc cách đây hơn 10 năm. Và hiện tại, trong quý II và sáu tháng đầu năm 2022, Hàn Quốc và Mỹ là những thị trường có lượng khách quốc tế đến Việt Nam nhiều nhất.
Tất cả các hãng hàng không châu Á, tiếp viên đều mặc đồng phục châu Âu. Nhưng chính tà áo dài trên Vietnam Airlines cùng clip hướng dẫn an toàn bay cho hành khách trong hình ảnh nữ tiếp viên duyên dáng, năng động đã tạo nên cảm giác yêu thích cho một chuyến khám phá các loại hình văn hóa Việt Nam.
Các lễ hội áo dài hàng năm tại TP.HCM, Huế và Hà Nội cũng góp phần quảng bá du lịch. Bên cạnh đó, hầu hết các khách sạn, nhà hàng, cửa hàng lưu niệm đều thể hiện phong cách Việt Nam qua những bộ đồng phục áo dài đẹp.
Du khách quốc tế trầm trồ trước nét duyên dáng không thể chối từ của những người phụ nữ trong tà áo dài. Hình ảnh tà áo dài đã trở thành biểu tượng của Việt Nam trong lòng bạn bè thế giới. Khả năng quảng bá văn hóa và du lịch của tà áo dài Việt Nam đến bạn bè thế giới đã thể hiện rõ trong nhiều năm qua.
Nhưng không hiểu sao đến nay Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vẫn chưa ra quyết định công nhận tà áo dài là di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc. Áo dài là một đặc sản văn hóa và là một trong những thương hiệu góp phần phát triển ngành công nghiệp không khói.
Anh và một số nhà thiết kế Việt Nam thường xuyên diện áo sơ mi trong các sự kiện lớn, trong và ngoài nước. Bạn bè quốc tế phản ứng thế nào về áo dài, gấm của Việt Nam?
– Đầu tiên, tôi “mê” áo dài từ nhỏ khi thấy bà, ngoại, mẹ và các cô của mình luôn mặc áo dài khi đi ngoài đường. Rồi hơn 30 năm làm đẹp cho áo dài đã giúp tôi có một sự nghiệp vững chắc về mọi mặt để có thể thành lập Bảo tàng áo dài Việt Nam đầu tiên mà đến nay vẫn đang hoạt động rất tốt.
Tôi thích mặc áo dài, không chỉ là hình thức phù hợp để chào khán giả sau buổi trình diễn thời trang áo dài mà còn là lễ phục khi tôi tham dự một sự kiện quan trọng. Tôi đã trình diễn thời trang áo dài tại hơn 20 quốc gia trên thế giới từ năm 1996. Hình ảnh áo dài trong các sự kiện văn hóa được mọi người ở châu Âu, châu Á, châu Phi hay châu Mỹ đánh giá cao và khen ngợi.
Xin cho phép tôi mượn một câu trong “Những câu chuyện từ trái tim” của cố GS-TS. Trần Văn Khê (1921 – 2015), một nhà nghiên cứu nổi tiếng về văn hóa và âm nhạc dân tộc Việt Nam đã nói lên nỗi lòng của mình: Yêu tà áo dài để hiểu mình là ai.
Nhiều quốc gia trên thế giới tận dụng rất tốt trang phục truyền thống để phục vụ du lịch. Ví dụ như ở Hàn Quốc, du khách mặc Hanbok sẽ được miễn phí vé tham quan một số di tích, cung điện tại đây. Bạn nghĩ sao nếu áp dụng điều này ở Việt Nam như cung đình Huế, Ninh Bình … Việt Nam còn thiếu gì nhất để quảng bá áo dài một cách rộng rãi?
– Tôi đề nghị du khách mặc áo dài sẽ được miễn phí vé tham quan một số di tích, lăng tẩm … tại Huế Gặp gỡ – Đánh thức và đổi mới với dự án “Bảo tàng Áo dài Huế” với nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên Huế – Ông .Phan Ngọc Thọ ngày 03/01/2020.
Việt Nam còn thiếu điều gì nhất để quảng bá áo dài một cách rộng rãi? Tôi thấy thực tế là sự liên kết, phối hợp đồng bộ từ chủ trương, đường lối, tổ chức thực hiện ở các cấp, các ngành liên quan chưa thực sự như mong muốn. Vẫn còn tình trạng có nơi chủ động làm một cách sáng tạo nhưng lo lắng, có nơi không dám làm vì quá nhiều quy định chồng chéo khi không còn phù hợp với thực tế phát triển. Nhiều cuộc họp cố gắng giải quyết, nhiều ý kiến đóng góp nhưng cuộc họp chỉ kết thúc ở biên bản và tiếp tục chờ đợi.
TP.HCM cần có những địa điểm văn hóa biểu diễn về đêm phục vụ du khách. Hiện nay, du khách trong và ngoài nước chỉ ngồi ở quán bar, quán cà phê, uống bia hoặc đi dạo. Một số mặt bằng rộng và đẹp, trước đây là nhà hát, nay bị bỏ hoang, xuống cấp. Nếu thuê để cải tạo để có sân khấu biểu diễn sẽ vướng quy định không được cho tư nhân thuê.
Có nhà đầu tư Hàn Quốc muốn xin xây nhà hát để biểu diễn các chương trình mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam, nhưng việc thuê đất để thực hiện dự án là một bài toán chưa có lời giải. Trong khi các dự án thuộc các nhà máy sản xuất, khu chế xuất, thương mại, dịch vụ … được ưu đãi hơn về sử dụng đất công.
Theo bạn, khách quốc tế thích áo dài ở điểm nào nhất?
– Du khách quốc tế và Việt kiều ít mua áo dài. Họ chủ yếu thích tham quan và xem quy trình thiết kế và sản xuất áo dài từ A-Z. Họ có thói quen khi đi du lịch tìm hiểu, khám phá, trải nghiệm sẽ thuê và mặc thử áo dài để chụp ảnh lưu niệm hơn là mua.
Theo bạn, Việt Nam nên làm gì để áo dài “hái ra tiền” như Hanbok trong ngành văn hóa?
– Tôi đã đến Hàn Quốc 4 lần và tham khảo mô hình phát triển Hanbok. Nếu muốn áo dài “hái ra tiền” trong ngành văn hóa du lịch, bạn cần học cách làm của họ trên bình diện chung:
Thứ nhất, các loại hình nghệ thuật khai thác di sản văn hóa truyền thống như âm nhạc, trang phục, ẩm thực, điện ảnh, truyền hình… có chủ trương chính sách quốc gia được gọi là công nghiệp văn hóa, được công nhận là công nghiệp văn hóa. đầu tư xứng đáng.
Thứ hai, từ dự án đến kịch bản liên quan đến di sản văn hóa cần phải có thêm ý kiến, nghiên cứu chuẩn mực từ các nhà văn hóa, sử học, dân tộc học, thơ học.
Thứ ba, môn học giáo dục nghệ thuật và di sản văn hóa truyền thống cần được đưa vào các trường học từ mẫu giáo đến đại học như một môn học tự chọn hoặc bắt buộc tùy theo cấp học.
Thứ tư, nên giảm hoặc miễn thuế đối với các hoạt động từ sản xuất đến biểu diễn liên quan đến khai thác các yếu tố di sản văn hóa nghệ thuật truyền thống.
Từ những cơ sở trên, xã hội sẽ hình thành cung và cầu. Hiểu biết, tôn trọng và yêu quý các giá trị được kế thừa và phát huy. Công nghiệp văn hóa là một công cụ ngoại giao lợi hại, đồng thời giúp truyền bá và truyền bá văn hóa Việt Nam trong nước cũng như trên thế giới.
Ngoài ra, cần thúc đẩy ngành du lịch trở thành ngành kinh tế lớn, đảm bảo nhận thức về phát triển du lịch toàn diện, thúc đẩy các chương trình du lịch văn hóa di sản quốc gia, kích hoạt các lễ hội vùng. . Không chỉ áo dài, Việt Nam nên khai thác các điểm đến du lịch văn hóa như làng nghề dệt lụa, làm nón, guốc, trang sức thủ công, ẩm thực, quà lưu niệm …
Cám ơn vì những chia sẻ của bạn!